• Nhóm kín víp prồ, đỉnh của chóp 👉 xamvn

Có video Bảo Đại địt nhau như gà ?

daodiemq

Tiến sĩ


Ngày 16/3/1946, cố vấn Vĩnh Thụy tham gia phái đoàn Việt Nam Dân chủ Cộng hòa sang Trùng Khánh thăm viếng Trung Hoa, nhưng ông không trở về mà viết thư về nước xin từ chức. Sau thời gian dài lưu vong ở Hồng Kông rồi Pháp, Bảo Đại về nước vào tháng 3/1949 để 4 tháng sau đó lên làm Quốc trưởng Chính phủ Lâm thời Quốc gia Việt Nam do thực dân Pháp dựng lên.

Bảo Đại làm Quốc trưởng đến tháng 10/1955 thì bị Ngô Đình Diệm phế truất. Ông sau đó sang Pháp sống lưu vong tại Paris cho đến cuối đời.

Cuộc đời và tình sử Vua Bảo Đại - 09

Vua Bảo Đại trên trang bìa tạp chí Pháp Paris Match, số ra tháng 9/1953, (Ảnh: Walter Carone/Paris Match).

Cựu hoàng Bảo Đại qua đời vào 5 giờ sáng ngày 31 tháng 7 năm 1997 tại Quân y viện Val-de-Grâce, hưởng thọ 85 tuổi. Đám tang Bảo Đại được tổ chức vào lúc 11 giờ ngày 6 tháng 8 năm 1997 tại nhà thờ Saint-Pierre de chaillot, số 35 đại lộ Marceau, quận 16 Paris và linh cữu được mai táng tại nghĩa địa Passy trên đồi Trocadero.

Tình sử

Do tiếp xúc, sống và học tập cùng văn hóa phương Tây từ nhỏ, Bảo Đại trưởng thành giống với một cậu trai Pháp bảnh bao hơn là một vị vua của một nước phong kiến châu Á. Vị vua cuối cùng của Việt Nam có vóc dáng cao lớn (1m82), gương mặt điển trai, lối sống phóng khoáng, phong độ, vì vậy mà có đời sống tình cảm khá phức tạp.

1. Marie Thérèse Nguyễn Hữu Thị Lan (Nam Phương Hoàng Hậu)

Marie Thérèse Nguyễn Hữu Thị Lan xuất thân trong một gia đình Công giáo giàu có bậc nhất miền Nam những năm đầu của thế kỷ 20. Năm 14 tuổi, cô được gia đình gửi sang Pháp, học trường dòng Couvent des Oiseaux ở Paris. Nguyễn Hữu Thị Lan là người nổi tiếng xinh đẹp, từng ba năm liền đạt giải hoa hậu Đông Dương, nhưng bà mang quốc tịch Pháp và theo Công giáo.


Năm 1933 khi vua Bảo Đại lên nghỉ mát tại Đà Lạt, trong một buổi dạ tiệc tại khách sạn La Palace tại Đà Lạt do toàn quyền Đông Dương và viên Đốc lý thành phố sắp đặt, Nguyễn Hữu Thị Lan và Bảo Đại đã gặp nhau.
Vẻ đài các quý tộc Tây Phương của Nam Phương Hoàng Hậu.
Về mối tình duyên đó, Bảo Đại có viết trong cuốn Con rồng Việt Nam Le Dragon d’ Annam:

“Cũng như tôi, Marie Thérèse rất thích thể thao và âm nhạc. Nàng có vẻ đẹp dịu dàng của người miền Nam pha một chút Tây phương. Do vậy mà tôi đã chọn từ kép Nam Phương để đặt danh hiệu cho nàng. Các vị Tiên Đế của tôi cũng thường hướng về người đàn bà miền Nam”.

Cuộc đời và tình sử Vua Bảo Đại - 11
Vẻ đẹp chim sa cá lặn của Nam Phương Hoàng Hậu.
Hoàng hậu Nam Phương cũng nhắc lại:

“Về sau, khi đã trở thành vợ chồng, Ngài mới cho tôi biết hôm đó Ngài rất chú ý cách phục sức đơn sơ của tôi. Tôi nghĩ rằng tôi được nhà vua lưu ý một phần do trong suốt buổi dạ tiệc chỉ có tôi là người đàn bà Việt Nam duy nhất nói tiếng Pháp và theo hành lễ đúng cung cách lễ nghi Âu tây đối với Ngài”.
Nam Phương Hoàng hậu được vua Bảo Đại tấn phong ngay sau khi cưới.
Ngày 20/3/1934, vua Bảo Đại làm đám cưới với Marie Thérèse Nguyễn Hữu Thị Lan. Cô dâu năm ấy 19 tuổi, với nhan sắc mặn mà, một vẻ đẹp đậm chất Á Đông, Nam Phương hoàng hậu được liệt vào danh sách “5 vị hoàng hậu đẹp nhất” thời bấy giờ..
Vua Bảo Đại và Nam Phương Hoàng Hậu.
Bà và vua Bảo Đại đã có 5 người con, Nam Phương Hoàng Hậu có 12 năm sống tràn đầy hạnh phúc, 16 năm sống cô đơn trong cuộc đời lưu vong nơi đất Pháp. Năm 1963, bà qua đời ở Pháp.
Nam Phương Hoàng Hậu và 5 công chúa hoàng tử con vua Bảo Đại ăn mặc theo phong cách Pháp.
2. Thứ Phi Bùi Mộng Điệp

Sinh năm 1924 tại Bắc Ninh, bà Bùi Mộng Điệp từng có một đời chồng và một con trai. Nhưng nhan sắc mặn mà của người phụ nữ Kinh Bắc đã khiến cựu hoàng vội quên lời hứa “một vợ một chồng” với hoàng hậu Nam Phương. Nếu Nam Phương hoàng hậu đại diện cho vẻ đẹp ‘chim sa, cá lặn’ thì thứ phi Mộng Điệp lại là vẻ đẹp có nhan sắc ‘nghiêng nước nghiêng thành’, tiêu biểu của xứ Kinh Bắc làm đắm say biết bao nhiêu chàng trai.
Mộng Điệp khi còn trẻ.
Được biết, Mộng Điệp được một người sắp xếp gặp mặt Bảo Đại trên sân tennis. Lúc đó mặc dù đã có vợ là Nam Phương Hoàng hậu nhưng ngài Bảo Đại rất si tình trước nhan sắc Mộng Điệp, chẳng mấy lúc hai người phải lòng nhau, Mộng Điệp trở thành thứ phi. Mặc dù trước đó, Bảo Đại từng có thời thề son sắc một chồng một vợ với Nam Phương. vài năm sau đó, họ chuyển về sống tại Đà Lạt.

Khi Bảo Đại không còn làm vua nữa, đất nước chiến tranh nên Mộng Điệp sang Pháp sinh sống.

Bà có với vua Bảo Đại 3 người con nhưng không may, 2 con trai lại mất khi tuổi đời còn quá trẻ.

Sau cái chết của người con thứ hai, thứ phi Mộng Điệp trở nên sống khép kín hơn, bà thu mình trong không gian nhỏ bé của ngôi nhà ở thủ đô Paris không tiếp đón bất kì một vị khách nào.

Cuộc đời và tình sử Vua Bảo Đại - 13
Thứ Phi Mộng Điệp trong trang phục hoàng gia.
Ngày 26-6-2011, sau ca giải phẫu tim không thành công, bà Mộng Điệp qua đời tại bệnh viện Saint Antoine vào lúc 12 giờ trưa Chủ nhật cùng ngày, thọ 87 tuổi.

3. Bà Phi Ánh

Bà Phi Ánh con nhà lành, giàu có, thuộc dòng họ danh giá. Sinh thời, bà cũng là một tuyệt sắc giai nhân nên được Bảo Đại yêu thương, tặng một biệt thự sang trọng. Bà sinh cho Bảo Đại 2 người, một gái, một trai. Sau khi chiến tranh Việt Nam kết thúc, bà Phi Ánh ở lại sinh sống cho đến cuối đời tại Sài Gòn Việt Nam. Con gái là Phương Minh, lấy chồng Pháp và sang lập nghiệp ở Hoa Kỳ.

Cuộc đời và tình sử Vua Bảo Đại - 14
Bà Phi Ánh thời xuân sắc.
Cuộc đời và tình sử Vua Bảo Đại - 15
“Công Chúa” Phương Minh và “Hoàng Tử” Bảo Ân bên cạnh mẹ trong thời gian thơ ấu ở Ðà Lạt.
4. Lý Lệ Hà

Lý Lệ Hà là một cô gái nông thôn nghèo ở Thái Bình đoạt giải hoa hậu Áo lụa Hà Đông vào năm 1930. Hoa hậu Lý Lệ Hà có hàm răng rất đẹp, như những hạt ngọc. Người đẹp mặc áo lụa Hà Đông là nguồn cảm hứng để nhà thơ Nguyên Sa sáng tác bài thơ “Áo Lụa Hà Đông” và được người nhạc sĩ trẻ tài hoa Ngô Thuỵ Miên phổ thơ thành nhạc. Cô là người tình của Bảo Đại trong thời gian ông sống ở Hà Nội, làm Cố Vấn Tối Cao của Chính Phủ Lâm Thời Việt Nam, cũng là thời kỳ ông sống với Mộng Điệp còn bà Nam Phương đang ở Huế…

5. Cô gái Trung Hoa Hoàng Tiểu Lan

Năm 1946, khi sống lưu vong ở Trung Hoa, Bảo Đại thương yêu một cô gái Tàu lai Tây, tên Hoàng Tiểu Lan (Jenny Woong) và đã có với cô một đứa con gái. Sau này ông cũng đưa bà về Đà Lạt và tặng bà một biệt thự.

6. Bà Vicky

Khi sống lưu vong ở Pháp, Bảo Đại mải ăn chơi, săn bắn, bài bạc, các lâu đài và tài sản lần lượt ra đi. Khi mua một trang trại ở Alsace, ông sống với cô vợ “hờ” người Pháp tên là Vicky mấy năm và sinh hạ được một con gái đặt tên là Phương Từ thì hai người chia tay. Bảo Đại phải rời khỏi Alsace bỏ lại nhà cửa đồ đạc cho Vicky.

7. Cô Clément

Chia tay Vicky, Bảo Đại càng lâm vào trầm uất và thất vọng. Có lần cảnh sát và người thân bắt gặp ông tại nhà cô vũ nữ Clément làm ở nhà hàng Le Moulin Rouge.

8. Monique Baudot

Khi toàn bộ tài sản đã đội nón ra đi, Bảo Đại gặp và chung sống với Monique Baudot, một phụ nữ Pháp sinh năm 1946 tại Lorraine, kém ông 30 tuổi. Bảo Ðại vào đạo Thiên Chúa, có tên thánh là Jean-Robert. Khi kết hôn với cựu hoàng Bảo Đại bà đổi tên thành: Princess Monique Vĩnh Thụy.

Cuộc đời và tình sử Vua Bảo Đại - 17
Monique Baudot khi còn trẻ.
Cuộc đời và tình sử Vua Bảo Đại - 18

Cựu Hoàng Bảo Đại và vợ Hoàng Phi Monique Vĩnh Thụy.

Về tiểu sử của Monique có nhiều nguồn tin khác nhau. Báo chí Pháp viết cô từng làm tùy viên báo chí trong một tòa đại sứ. Nhưng bạn bè lại kể cô làm việc dọn phòng trong một khách sạn. Một người bạn đã đi thuê cho ông một căn hộ trong cao ốc 29 Fresnel, quận 16 – Paris. Chính nhờ làm bồi phòng ở cao ốc 29 Fresnel nên Monique Baudot mới biết được có một ”ông vua lưu vong” bệnh tật không người chăm sóc, cô đến giúp đỡ và trở thành người thân cận nhất của cựu hoàng suốt mấy thập niên cuối đời. Dù mặn nồng trong nhiều năm chung sống, nhưng hai người không có con.

Cuộc đời và tình sử Vua Bảo Đại - 19

Bảo Đại chụp cùng vợ Monique Vĩnh Thụy tại Paris vào năm 1992.

Cựu hoàng Bảo Đại qua đời vào 5 giờ sáng ngày 31 tháng 7 năm 1997 tại Quân y viện Val-de-Grâce, hưởng thọ 85 tuổi. Trả lời BBC về sự kiện này, bà Monique nói: “Ngày hôm nay tôi rất đau buồn. Dĩ nhiên rồi, trước hết và trên hết là vì chồng tôi vừa qua đời. Nhưng hôm nay trang sử của triều Nguyễn Việt Nam cũng được chấm dứt. Tôi cầu nguyện cho chồng tôi“.

Có thể thấy, ông hoàng Bảo Đại dù có cuộc đời và sự nghiệp long đong do sinh thời trong giai đoạn lịch sử nước nhà và thế giới có nhiều biến động và phức tạp. Tuy nhiên, trong tình trường, ông lại là một người đào hoa hết sức với 2 người vợ (có đám cưới hoặc kết hôn), rất nhiều người tình và 13 người con. Những người tình của ông đều là những bóng hồng xinh đẹp nổi tiếng một thời, và cho dù trong hoàn cảnh khó khăn nhất của cuộc đời mình, ông vẫn luôn tìm được những người phụ nữ rất mực thủy chung và yêu thương ông sâu sắc.

Bị phế truất​

Tháng 9 năm 1954, tướng Nguyễn Văn Hinh không chịu dưới quyền chỉ huy của Ngô Đình Diệm nên đánh điện sang Pháp nhờ Bảo Đại can thiệp. Bảo Đại điện về Sài Gòn triệu tập Diệm sang Cannes gặp Bảo Đại để bàn lại việc sắp xếp nhân sự nhưng Diệm không đi. Bảo Đại quyết định điện về Sài Gòn cách chức thủ tướng của Ngô Đình Diệm.

Tuy nhiên, ngày 4 tháng 10 năm 1955, Ủy ban trưng cầu dân ý thành lập đưa ý kiến đòi truất phế Quốc trưởng Bảo Đại và đưa Thủ tướng Ngô Đình Diệm lên làm Quốc trưởng. Khi cử tri đi đến nơi bỏ phiếu, họ thấy rằng nơi đây đã bị những người ủng hộ Ngô Đình Diệm kiểm soát. Một cử tri sau khi bỏ phiếu đã nói rằng "Người chỉ đạo nói cho chúng tôi hiểu rằng ở đây chỉ có hai sự lựa chọn, hoặc là phiếu đỏ (Ngô Đình Diệm) sẽ được bỏ vào hòm phiếu hoặc phiếu xanh sẽ bị loại đi".40 Về phía Bảo Đại, ngày 18/10/1955, ông đưa ra tuyên bố cắt chức Thủ tướng cũng như xóa bỏ mọi quyền lực của Ngô Đình Diệm từ văn phòng của mình tại Paris để phản đối một chính phủ công an trị và chế độ độc tài cá nhân do Ngô Đình Diệm đứng đầu.41

Cuộc sống lưu vong​

7c4445bc472787bd21a2c7235e8b34f4.jpg


Bảo Đại tại Paris
Ông sống tại Cannes, sau đó chuyển đến vùng Alsace. Bảo Đại giao du với Jean de Beaumont, cựu nghị sĩ Nam Kỳ, một tay săn bắn có hạng. Bị cơ quan thuế để mắt tới, không còn tiền tài trợ của chính phủ Pháp, ông phải bán dần tài sản của mình. Năm 1963, Nam Phương hoàng hậu qua đời ở Chabrignac. Năm 1972, khi đã tiêu pha hết cả tài sản, Bảo Đại sống với Monique Baudot, một phụ nữ Pháp kém Bảo Đại hơn 30 tuổi (Monique Baudot sinh năm 1946), đến năm 1982 thì kết hôn. Bảo Đại nhập đạo Công giáo lấy tên thánh là Jean-Robert.

Trong thời gian này, ảnh hưởng của Bảo Đại tại các khu vực như Quảng Trị và Thừa Thiên-Huế vẫn còn rất lớn. Chính vì vậy phía Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã phái các đại diện sang Pháp nhằm thuyết phục Bảo Đại tham gia một chính phủ liên hiệp nhằm thống nhất Việt Nam, nhờ đó thông qua Bảo Đại thì miền Bắc có thể thu hút thêm những người ủng hộ tại các địa phương mà Bảo Đại có ảnh hưởng. Dưới ảnh hưởng của các cuộc gặp mặt này, trong những buổi phát biểu công khai Bảo Đại đã thể hiện lập trường chống lại sự hiện diện của quân đội Hoa Kỳ tại Việt Nam, chỉ trích chính phủ Nguyễn Văn Thiệu và kêu gọi thành lập một chính phủ liên hiệp tự do, trung lập và hòa bình tại Việt Nam [cần dẫn nguồn].

Năm 1982, nhân khai trương Hội Hoàng tộc ở hải ngoại, Bảo Đại lần đầu tiên sang thăm Mỹ với tư cách cá nhân. Trong chuyến đi này ông đã nhận tên cha để làm lại giấy khai sinh cho những người con ngoại hôn trước đây không ghi tên ông trong phần tên cha. Tại thị trấn Sacramento, ông được tặng chiếc chìa khóa vàng tượng trưng cho thị trấn này. Ông cũng được bà thị trưởng thành phố Westminster, California tặng danh hiệu "công dân danh dự" của thành phố. Ông cũng thăm viếng và chúc mừng các buổi lễ của cộng đồng Phật giáo và Cao Đài người Việt ở California cùng các cộng đồng người Mỹ gốc Việt ở Texas. Bảo Đại cũng nhân dịp này thăm dò ý kiến của các cộng đồng người Việt sống ở Hoa Kỳ về giải pháp cho việc hòa giải dân tộc.

Tang lễ​

Cựu hoàng Bảo Đại là vị vua thọ nhất nhà Nguyễn. Ông qua đời vào 5 giờ sáng ngày 31 tháng 7 năm 1997 tại Quân y viện Val-de-Grâce42 , hưởng thọ 85 tuổi. Ông cũng là một phế đế sống thọ nhất trên thế giới thời hiện đại. Trước đó ông có nhận lời về tham dự Hội nghị thượng đỉnh Cộng đồng Pháp ngữ (La Francophonie) được tổ chức tại Hà Nội vào 1997.[cần dẫn nguồn]

Đám tang Bảo Đại được tổ chức vào lúc 11 giờ ngày 6 tháng 8 năm 1997 tại nhà thờ Saint-Pierre de chaillot số 35 đại lộ Marceau, quận 16 Paris và linh cữu được mai táng tại nghĩa địa Passy trên đồi Trocadero.42

Trả lời BBC về sự kiện này, bà Monique nói: "Ngày hôm nay tôi rất đau buồn. Dĩ nhiên rồi, trước hết và trên hết là vì chồng tôi vừa qua đời. Nhưng hôm nay trang sử của triều Nguyễn Việt Nam cũng được chấm dứt. Tôi cầu nguyện cho chồng tôi".43


Đánh giá​

Trong cuốn "Bảo Đại - hay những ngày cuối cùng của vương quốc An Nam", Daniel Grandclément viết44 :

Bảo Đại đúng như những gì mọi người Việt đã biết về ông: hào hoa, lịch lãm và sành điệu, săn bắn giỏi, lái xe hơi, máy bay giỏi, khiêu vũ, đánh golf, chơi quần vợt giỏi... Ông chỉ không biết làm vua. Ông vua nước Nam cứ quẩn quanh, thậm chí mưu mẹo chỉ để có được từ chiếc xe hơi, máy bay cho đến khẩu súng săn, cuốn album bìa da, thỏa mãn những thú vui vật chất.Như lời Bảo Đại thú nhận: “Người Pháp lúc nào cũng muốn tôi ngồi yên một chỗ, không cho thân mật với dân nên trong hai mươi năm trời làm vua tôi ra Bắc một lần, vào Nam kỳ một lần, cũng là đi lướt qua, không thấy rõ ràng một điều gì. Xung quanh tôi họ đặt toàn những người mật thám. Tôi rất buồn biết mình không thể làm chi có ích cho đất nước...”.Ông mơ hồ tin tưởng vào “nền độc lập trong khuôn khổ Liên hiệp Pháp” đạt được dễ dàng cùng với các điều kiện vật chất. Quen sung sướng, quen được cung phụng, Bảo Đại dường như chưa bao giờ nghĩ đến việc đi tìm độc lập bằng con đường nếm mật nằm gai như các vua Hàm Nghi, Duy Tân trước ông.Ông đã khước từ những cơ hội mà Chủ tịch Uncle Lake đã tạo ra, mang đến cho ông... Khước từ cơ hội đi chung đường với cả dân tộc, dù ông đã cùng chính phủ cộng hòa non trẻ ngồi họp bàn từ việc lớn đến việc nhỏ trong những ngày khai sinh nhà nước. Con đường mà Bảo Đại chọn cuối cùng đã dẫn đến kết cục “ông hoàng bị quét đi như quét một hạt bụi vô giá trị...”.Hành động lớn nhất trong đời ông là thoái vị, và ông đi vào lịch sử chỉ bằng một câu nói: “Tôi muốn làm dân một nước tự do hơn là làm vua một nước nô lệ”.
Nhà báo Merry Bromberger viết về thói ăn chơi của Bảo Đại: "Muốn gặp Bảo Đại ở Hongkong chỉ cần dạo mười bốn hộp đêm trong thành phố, dễ hơn là tìm ông trong một khách sạn Anh"45

Tháng 3/1948, khi một nhà báo quốc tế nói rằng Bảo Đại sẽ chịu hợp tác với Pháp để thành lập chính phủ, với điều kiện quân đội và ngoại giao của chính phủ đó thuộc quyền chỉ huy của Pháp, chủ tịch Uncle Lake vẫn tỏ ra tin tưởng Bảo Đại: "Ông Vĩnh Thuỵ (tên thật của Bảo Đại) là Cố vấn của Chính phủ Việt Nam. Ông ấy không thể đàm phán hoặc hành động gì trước khi Chính phủ Việt Nam đồng ý. Vả chǎng, nếu quân đội và ngoại giao Việt Nam ở dưới quyền Pháp tức là Việt Nam chưa được độc lập hẳn và vẫn là thuộc địa của Pháp. Điều kiện như thế thì ngoài bọn phản quốc ra, không có một người Việt Nam nào chịu nhận, cố vấn Vĩnh Thụy cũng vậy. Hơn 80 nǎm dưới quyền thống trị của Pháp, nhân dân Việt Nam đã nếm đủ sỉ nhục và đau khổ."46 Sau đó, khi thông tin này đã trở thành sự thật, trả lời điện phỏng vấn của Dân quốc Nhật báo (Trung Hoa Dân Quốc) ngày 3/4/1949, chủ tịch Uncle Lake đã lên án Bảo Đại như sau:

"Vĩnh Thụy trở về với 10.000 quân viễn chinh Pháp, để giết hại thêm đồng bào Việt Nam. Vĩnh Thụy cam tâm bán nước, đó là sự thực. Âm mưu của thực dân Pháp là đặt lại chế độ nô lệ ở Việt Nam. Vĩnh Thụy làm tay sai cho thực dân, là một tên phản quốc. Pháp luật Việt Nam tuy khoan hồng với những người biết cải tà quy chính nhưng sẽ thẳng tay trừng trị những tên Việt gian đầu sỏ đã bán nước buôn dân. Quân và dân Việt Nam quyết tâm đánh tan tất cả âm mưu của thực dân, quyết kháng chiến để tranh cho kỳ được độc lập và thống nhất thật sự."47 48 .

Gia quyến​

1712fbc8afc40281530906e23aa4e6ea.jpg


Tượng bán thân của Bảo Đại Đế trong Dinh Bảo Đại
  • Ông: Nguyễn Cảnh Tông Đồng Khánh hoàng đế.
  • Bà: Hựu Thiên Thuần hoàng hậu Dương thị (佑天純皇后楊氏; 18 tháng 4 năm 1868 - 17 tháng 9 năm 1944), được tôn phong Khôn Nghi Xương Đức Thái hoàng thái hậu (坤儀昌德太皇太后), còn gọi là Đức Tiên Cung (德仙宮). Khi Bảo Đại còn bé đều do bà nuôi dưỡng.
  • Cha: Nguyễn Hoằng Tông Khải Định hoàng đế.
  • Mẹ: Đoan Huy Hoàng thái hậu Hoàng thị (端徽皇太后黃氏; 28 tháng 1 năm 1890 - 9 tháng 11 năm 1980), còn gọi là Đức Từ Cung (德慈宮). Bà vốn là Cung nhân, xuất thân thấp kém, sau mang thai Bảo Đại mà được tấn phong Huệ phi (惠妃).
  • Hậu phi:
  1. Nam Phương hoàng hậu Nguyễn Hữu Thị Lan (南芳皇后阮有氏蘭; 14 tháng 12 năm 1914 - 16 tháng 9 năm 1963), con gái của Nguyễn Hữu Hào và phu nhân Lê Thị Bính, con gái của Lê Phát Đạt. Quê Gò Công, Tiền Giang, Việt Nam, có hôn thú, có năm người con
  2. Bùi Mộng Điệp (裴夢蝶; 22 tháng 6 năm 1924 - 26 tháng 6 năm 2011), quê Bắc Ninh, không hôn thú, có ba người con.
  3. Ánh phi Lê thị (暎妃黎氏) ở Huế, (24 tháng 06, 1925 - 15 tháng 12 năm 1986: 61 tuổi) không hôn thú, có hai người con, được phong làm Ánh phi (暎妃) vào năm 1935. Về sau đều gọi bà là Lê Phi Ánh (黎妃暎).
  4. Lý Lệ Hà, quê Thái Bình, vũ nữ, không hôn thú, không có con
  5. Hoàng Tiểu Lan (黃小蘭), còn tên khác là Jenny Woong, vũ nữ Trung Hoa lai Pháp, không hôn thú, có một con gái, sau này cũng có đưa về Đà Lạt, cũng có một biệt thự như các bà thứ phi người Việt.
  6. Bà Vicky (Pháp), không hôn thú, có một con gái.
  7. Clément(?), vũ nữ và buôn lậu ở xóm Cigalle (Pháp), không hôn thú
  8. Monique Marie Eugene Baudot (莫尼克·博多), người Pháp, sinh tại Lorraine vào ngày 30 tháng 4, năm 1946. Năm 1972 vào tháng 2, bà kết hôn với Bảo Đại Đế, được xưng danh Hoàng phi (皇妃; Imperial Princess). Sau khi Bảo Đại Đế băng hà, bà tự xưng làm Thái Phương hoàng hậu (泰芳皇后).49
  • Hậu duệ: Bảo Đại có 5 hoàng tử và 7 hoàng nữ, tổng cộng 12 người con.
06ff40ce7a79d60291ad0e6a74a1865e.jpg


Hoàng nam Bảo Ân, con trai út của Bảo Đại Đế
    • Hoàng tử:
  1. Nguyễn Phúc Bảo Long, sinh ngày 4 tháng 1 năm 1936, mất ngày 28 tháng 7 năm 2007. Mẹ là Nam Phương hoàng hậu.
  2. Nguyễn Phúc Bảo Thắng, sinh ngày 9 tháng 12 năm 1943, mất ngày 15 tháng 3 năm 2017. Mẹ là Nam Phương hoàng hậu.
  3. Nguyễn Phúc Bảo Ân, sinh năm 1951 đang sống tại Westminster, là người con nối dõi nhà Nguyễn. Mẹ là Lê Phi Ánh. Ông Bảo Ân có hai con, gái là Nguyễn Phúc Thụy Sĩ, sinh năm 1976 và trai là Nguyễn Phúc Quý Khang sinh năm 1977. Như vậy, Nguyễn Phúc Quý Khang là cháu đích tôn của Cựu Hoàng Bảo Ðại.50 .
  4. Nguyễn Phúc Bảo Hoàng, sinh năm (1954 - 1955), chết khi một tuổi. Mẹ là Bùi Mộng Điệp.
  5. Nguyễn Phúc Bảo Sơn, sinh năm (1957 - 1987), chết khi 30 tuổi vì tử nạn tại Nhật. Mẹ là Bùi Mộng Điệp.
    • Hoàng nữ:
  1. Nguyễn Phúc Phương Mai, sinh ngày 1 tháng 8 năm 1937 tại Đà Lạt.
  2. Nguyễn Phúc Phương Liên, sinh ngày 3 tháng 11 năm 1938. Mẹ là Nam Phương hoàng hậu.
  3. Nguyễn Phúc Phương Dung, sinh ngày 5 tháng 2 năm 1942. Mẹ là Nam Phương hoàng hậu.
  4. Nguyễn Phúc Phương Thảo, sinh ngày 4 tháng 6 năm 1946 hiện nay đang sống ở Pháp. Mẹ là Bùi Mộng Điệp.
  5. Nguyễn Phúc Phương Minh, sinh ngày 15 tháng 1 năm 1949, bà lấy chồng và lập nghiệp ở Pháp, rồi ly dị, trước Tháng 4 năm 1975 về Sài Gòn thăm mẹ và bị kẹt lại đây, sau đó được bảo lãnh sang Hoa Kỳ lập nghiệp và qua đời tại Hoa Kỳ vào năm 2012. Mẹ là Lê Phi Ánh.
  6. Nguyễn Phúc Phương An, sinh năm 1955, hiện nay đang sống ở Hawaii, Hoa Kỳ51 52 . Mẹ là Hoàng Tiểu Lan.
  7. Nguyễn Phúc Phương Từ, sinh năm 195553 , hiện đang sống ở Pháp. Mẹ là Quý bà Vicky.
Bảo Đại còn có một người con do bà Từ Cung Hoàng thái hậu nuôi từ nhỏ, nhưng không rõ là con bà nào do ông không tiết lộ.

Câu nói​

  • Ta không muốn một quân đội nước ngoài làm đổ máu thần dân ta.55 Phát biểu khi từ chối sự bảo vệ của quân Nhật chống lại nguy cơ đảo chính của Việt Minh.
  • Làm dân một nước độc lập hơn làm vua một nước nô lệ.56
  • Cái được gọi là giải pháp Bảo Đại hóa ra là giải pháp của người Pháp.23
  • Đã đến lúc kết thúc cuộc chiến huynh đệ tương tàn và ít nhất là phục hồi hòa bình cùng sự hòa hợp.57 Phát biểu năm 1972 nhằm kêu gọi hòa bình và hòa hợp dân tộc ở Việt Nam.
  • Xin cho tôi được sống và chết trong bình yên.58

Trong thơ ca​

Khi Bảo Đại sang Trung Quốc, nhà thơ Việt Nam đương thời Tú Mỡ có bài thơ châm biếm về việc này.

Trong điện ảnh​

Hình tượng Bảo Đại được dựng thành bộ phim "Ngọn nến Hoàng cung" năm 2004 do diễn viên Huỳnh Anh Tuấn đóng.

Tiền đồng "Bảo Đại thông bảo"​

Tiền đồng Bảo Đại thông bảo (保大通寶) là loại tiền đồng Việt Nam kiểu cổ sau cùng được chế tạo. Có ba loại tiền Bảo Đại Thông bảo: loại tiền đúc cỡ nhỏ, loại tiền đúc cỡ lớn mặt sau có nổi chữ "mười văn" và loại tiền đúc lớn có mặt sau "trơn". Tất cả được phát hành vào năm 1933.

  • b393222fa065c0c9a1d2ae349f76ea63.png

    保大通寶 (1926-1945)
  • 保大通宝小平銭.gif


  • BaoDaiThongBao.png
 

daodiemq

Tiến sĩ
Chủ thớt
Nguyễn Phước Bảo Ân, con trai của bà Lê Phi Ánh, người vợ không hôn thú của cựu hoàng trong thời gian ở Ðà Lạt. Bà Phi Ánh có hai người con với cựu hoàng là bà Nguyễn Phúc Phương Minh sinh năm 1950 đã qua đời tại Mỹ cách đây vài năm và ông Bảo Ân, sinh năm 1951, đang sống tại thủ phủ tỵ nạn, Westminster.
Chúng tôi không gọi ông Bảo Ân bằng hoàng tử như trong văn bản triều đình mà gọi bằng “Mệ” theo lối xưng hô trong hoàng tộc: Con gái, con trai của vua được gọi bằng Mệ, hàng cháu là “Mụ” chứ không phải ai là Tôn Thất, Bửu, Vĩnh… đều được gọi bằng Mệ như nhiều người đã lầm tưởng (1).
Ðiều đặc biệt không phải vì ông là một hoàng tử lưu lạc, mà vì chính ông là người con nối dõi nhà Nguyễn. Cựu hoàng có tất cả 5 người con trai: Con Hoàng Hậu Nam Phương là Bảo Long không có vợ chính thức, Bảo Thăng không có con; con của Thứ Phi Mộng Ðiệp là Bảo Hoàng chết khi mới 1 tuổi, Bảo Sơn mất khi ông 30 tuổi không có con.
Bảo Ân có hai con, gái là Nguyễn Phước Thụy Sĩ, sinh năm 1976 và trai là Nguyễn Phước Quý Khang sinh năm 1977. Như vậy, Nguyễn Phước Quý Khang là cháu đích tôn của Cựu Hoàng Bảo Ðại và chắt của ngài là một cặp trai song sinh có tên là Nguyễn Phước Ðịnh Lai, Nguyễn Phước Ðịnh Luân ra đời năm 2012.
“Mệ” Bảo Ân sinh năm 1951 tại Ðà Lạt. Năm 1953, khi cựu hoàng sang Pháp, bà Phi Ánh đem hai con về sinh sống trong một biệt thự trên đường Phùng Khắc Khoan tại Sài Gòn. Ông theo học trường Saint Paul rồi Taberd.
Ngày 4 tháng 10 năm 1955, Thủ Tướng Ngô Ðình Diệm lập ủy ban trưng cầu dân ý truất phế Quốc Trưởng Bảo Ðại, và trở thành quốc trưởng. Theo lời kể của ông Bảo Ân, sau ngày đó, nhiều biệt thự ở Sài Gòn, Ðà Lạt và Pháp của bà Phi Ánh đều bị tịch thu, bà và người nhà được lệnh ra khỏi nhà trong vòng 24 tiếng đồng hồ. Nhiều người đã đến đục tường ngôi nhà vì nghi có của cải cải cất giấu. Tài sản này là của tư hữu của bà Phi Ánh, vì chúng ta cũng biết bà Phi Ánh là em vợ của Thủ Hiến Trung Phần Phan Văn Giáo, sinh ra trong một gia đình giàu có, trong khi Cựu Hoàng Bảo Ðại rất nghèo, trong thời gian sống rất khó khăn ở Pháp, phải nhờ sự yểm trợ của thân mẫu là bà Từ Cung. Ðức Từ Cung đã phải bán nhiều cổ vật của Vua Khải Ðịnh để lấy tiền gửi sang cho cựu hoàng.
Sau ngày cựu hoàng bị truất phế, bà con, ngay cả bên gia đình của bà Phi Ánh cũng không ai muốn chứa chấp mẹ con bà, ba mẹ con phải ở nhà thuê, rày đây mai đó.
Trong hoàn cảnh này, bà Phi Ánh đành phải bước thêm bước nữa.
Khi nghe bà Phi Ánh đi lấy chồng, theo đề nghị của nhiều người thân thuộc trong Hoàng Tộc, bà Từ Cung đem Bảo Ân về Huế ăn học.
Chúng ta cũng biết thêm rằng, ngày 25 tháng 8 năm 1945, khi thoái vị làm dân, Cựu Hoàng Bảo Ðại đã giao tất cả cung điện như là tài sản của quốc gia, trừ Cung An Ðịnh tại làng An Cựu, nơi bà Từ Cung sinh sống, là tài sản riêng, do lương bổng của Vua Khải Ðịnh xây dựng nên. Sau đó, chính “công dân” Vĩnh Thụy, bà Nam Phương và các con đã về ở đó một thời gian, trước gia đình tan rã, mỗi người một phương.
Cũng theo lời ông Bảo Ân, sau khi truất phế Bảo Ðại, Cung An Ðịnh bị chính quyền tịch thu, bà Từ Cung trong lúc đó đang đau yếu phải dọn ra một ngôi nhà nhỏ trong khuôn viên của cung. Tuy vậy trong cuốn hồi ký của Vua Bảo Ðại, ông không hề có một lời trách móc oán hận về chuyện bị đối xử tệ bạc này.
Tại Huế, ông Bảo Ân theo học tại trường Thiên Hựu (Providence) do các linh mục quản nhiệm. Ông tâm sự rằng, tuy sống trong một gia đình Phật Giáo thuần thành, ông lại phải theo học từ nhỏ đến lớn tại các trường nhà dòng, nên ông còn thông thuộc kinh Thiên Chúa Giáo hơn một người theo đạo Chúa khác.





163296-BAO%20DAI%201A.400.JPG



Bà Phi Ánh thời xuân sắc. (Hình: Tài liệu của ông Bảo Ân)
Sau thời gian ở Huế, Bảo Ân trở lên Ðà Lạt rồi về Sài Gòn. Tới tuổi quân dịch, năm 1970, chỉ mới có bằng trung học, ông vào quân trường Quang Trung, rồi phục vụ tại Trung Tâm 3-Tuyển Mộ Nhập Ngũ Sài Gòn. Không hiểu vì lý do gì, năm 1972, ông Bảo Ân bị thuyên chuyển ra SÐ3 tại Quảng Trị, nhưng khi ra đến nơi, sư đoàn đã tan hàng nên ông được trở về đơn vị gốc.
Cố gắng đến trường, và cuối cùng, trước khi Sài Gòn thất thủ, ông Bảo Ân là sinh viên năm thứ hai phân khoa Thương Mại tại Ðại Học Vạn Hạnh, Sài Gòn.
Sau năm 1975, bà Phi Ánh sống trong cô đơn tại Sài Gòn và qua đời vào năm 1984, ở tuổi 62. Cô Phương Minh, chị ruột của ông Bảo Ân, lấy chồng và lập nghiệp ở Pháp, ly dị, trước tháng 4 năm 1975 về Sài Gòn thăm thân mẫu và bị kẹt lại đây, sau đó được bảo lãnh sang Hoa Kỳ lập nghiệp và qua đời vào năm 2012. Phần ông Bảo Ân, lúc đó đã có gia đình nên phải sống dưới chế độ cơm sườn thêm nhiều năm nữa, cho đến 1992 mới được gia đình bên vợ bảo lãnh sang Mỹ.





163296-BAO%20DAI%201B.400.JPG



Hai nhân vật cuối cùng của giòng Vua Bảo Ðại: Nguyễn Phước Ðịnh Lai và Ðịnh Luân (cháu nội của Bảo Ân). (Hình: Tài liệu của ông Bảo Ân)

* Ðọc thêm: Cựu Hoàng Bảo Ðại có gồm cả vợ và tình nhân là 8 người với 13 người con (tài liệu đã được ông Bảo Ân hiệu đính):
Vợ:

1. Nam Phương Hoàng Hậu. Có hôn thú, 5 con.
2. Bùi Mộng Ðiệp. Không hôn thú, 3 con.
3. Lý Lệ Hà. Không hôn thú, không con.
4. Hoàng Tiểu Lan. Không hôn thú, 1 con gái.
5. Lê Thị Phi Ánh. Không hôn thú, 2 con.
6. Vicky (Pháp). Không hôn thú, 1 con gái.
7. Clément. Không hôn thú.
8. Monique Marie Eugene Baudot. Có hôn thú, không con.

Con:
* Với Nam Phương Hoàng Hậu:

1. Thái Tử Nguyễn Phúc Bảo Long (4-1-1936/28-7-2007)
2. Công Chúa Nguyễn Phúc Phương Mai (1-8-1937).
3. Công Chúa Nguyễn Phúc Phương Liên (3-11-1938).
4. Công Chúa Nguyễn Phúc Phương Dung (5-2-1942).
5. Hoàng Tử Nguyễn Phúc Bảo Thăng (9-12-1943).
(Bốn người con còn lại của Bà Nam Phương hiện sống ở Pháp.)

*Với Thứ Phi Mộng Ðiệp, hai người con đầu hiện ở Pháp:
1. Nguyễn Phúc Phương Thảo (1946).
2. Nguyễn Phúc Bảo Hoàng (1954-1955).
3. Nguyễn Phúc Bảo Sơn (1957-1987), tử nạn tại Nhật.

*Với Hoàng Tiểu Lan:
1. Nguyễn Phúc Phương Anh, hiện sống ở Hawaii.

* Với Lê Thị Phi Ánh:
1. Nguyễn Phúc Phương Minh (1950-2012).
2. Nguyễn Phúc Bảo Ân (1951).

* Với bà Vicky
1. Nguyễn Phúc Phương Từ (Pháp).

Ghi chú:
(1) Xem tiếng “Mệ” trang 363, Từ Ðiển Nhà Nguyễn (XB Nam Việt 2013).

Kỳ sau: Con Vua đi bán Chợ Trời, trước khi định cư ở Mỹ
 

daodiemq

Tiến sĩ
Chủ thớt

Về Bảo Ân – con trai út của vua Bảo Đại​

Print Friendly, PDF & Email
bao-an-1

Tác giả: Huy Phương
Nhiều người Việt Nam sống ở quận Cam nhiều năm nay nhưng ít người biết có một người con trai của Cựu Hoàng Bảo Ðại đang sinh sống tại nơi này.
Ðó là ông Nguyễn Phước Bảo Ân, con trai của bà Lê Phi Ánh, người vợ không hôn thú của cựu hoàng trong thời gian ở Ðà Lạt. Bà Phi Ánh có hai người con với cựu hoàng là bà Nguyễn Phúc Phương Minh sinh năm 1950 đã qua đời tại Mỹ cách đây vài năm và ông Bảo Ân, sinh năm 1951, đang sống tại thủ phủ tỵ nạn, Westminster.
Chúng tôi không gọi ông Bảo Ân bằng hoàng tử như trong văn bản triều đình mà gọi bằng “Mệ” theo lối xưng hô trong hoàng tộc: Con gái, con trai của vua được gọi bằng Mệ, hàng cháu là “Mụ” chứ không phải ai là Tôn Thất, Bửu, Vĩnh… đều được gọi bằng Mệ như nhiều người đã lầm tưởng.
Ðiều đặc biệt không phải vì ông là một hoàng tử lưu lạc, mà vì chính ông là người con nối dõi nhà Nguyễn. Cựu hoàng có tất cả 5 người con trai: Con Hoàng Hậu Nam Phương là Bảo Long không có vợ chính thức, Bảo Thăng không có con; con của Thứ Phi Mộng Ðiệp là Bảo Hoàng chết khi mới 1 tuổi, Bảo Sơn mất khi ông 30 tuổi không có con.
Bảo Ân có hai con, gái là Nguyễn Phước Thụy Sĩ, sinh năm 1976 và trai là Nguyễn Phước Quý Khang sinh năm 1977. Như vậy, Nguyễn Phước Quý Khang là cháu đích tôn của Cựu Hoàng Bảo Ðại và chắt của ngài là một cặp trai song sinh có tên là Nguyễn Phước Ðịnh Lai, Nguyễn Phước Ðịnh Luân ra đời năm 2012.
Bài đang hot
Thế giới hôm nay: 08/05/2024

“Mệ” Bảo Ân sinh năm 1951 tại Ðà Lạt. Năm 1953, khi cựu hoàng sang Pháp, bà Phi Ánh đem hai con về sinh sống trong một biệt thự trên đường Phùng Khắc Khoan tại Sài Gòn. Ông theo học trường Saint Paul rồi Taberd.
Ngày 4 tháng 10 năm 1955, Thủ Tướng Ngô Ðình Diệm lập ủy ban trưng cầu dân ý truất phế Quốc Trưởng Bảo Ðại, và trở thành quốc trưởng. Theo lời kể của ông Bảo Ân, sau ngày đó, nhiều biệt thự ở Sài Gòn, Ðà Lạt và Pháp của bà Phi Ánh đều bị tịch thu, bà và người nhà được lệnh ra khỏi nhà trong vòng 24 tiếng đồng hồ. Nhiều người đã đến đục tường ngôi nhà vì nghi có của cải cải cất giấu. Tài sản này là của tư hữu của bà Phi Ánh, vì chúng ta cũng biết bà Phi Ánh là em vợ của Thủ Hiến Trung Phần Phan Văn Giáo, sinh ra trong một gia đình giàu có, trong khi Cựu Hoàng Bảo Ðại rất nghèo, trong thời gian sống rất khó khăn ở Pháp, phải nhờ sự yểm trợ của thân mẫu là bà Từ Cung. Ðức Từ Cung đã phải bán nhiều cổ vật của Vua Khải Ðịnh để lấy tiền gửi sang cho cựu hoàng.
Sau ngày cựu hoàng bị truất phế, bà con, ngay cả bên gia đình của bà Phi Ánh cũng không ai muốn chứa chấp mẹ con bà, ba mẹ con phải ở nhà thuê, rày đây mai đó.
Trong hoàn cảnh này, bà Phi Ánh đành phải bước thêm bước nữa.
Khi nghe bà Phi Ánh đi lấy chồng, theo đề nghị của nhiều người thân thuộc trong Hoàng Tộc, bà Từ Cung đem Bảo Ân về Huế ăn học.
Chúng ta cũng biết thêm rằng, ngày 25 tháng 8 năm 1945, khi thoái vị làm dân, Cựu Hoàng Bảo Ðại đã giao tất cả cung điện như là tài sản của quốc gia, trừ Cung An Ðịnh tại làng An Cựu, nơi bà Từ Cung sinh sống, là tài sản riêng, do lương bổng của Vua Khải Ðịnh xây dựng nên. Sau đó, chính “công dân” Vĩnh Thụy, bà Nam Phương và các con đã về ở đó một thời gian, trước gia đình tan rã, mỗi người một phương.
Cũng theo lời ông Bảo Ân, sau khi truất phế Bảo Ðại, Cung An Ðịnh bị chính quyền tịch thu, bà Từ Cung trong lúc đó đang đau yếu phải dọn ra một ngôi nhà nhỏ trong khuôn viên của cung. Tuy vậy trong cuốn hồi ký của Vua Bảo Ðại, ông không hề có một lời trách móc oán hận về chuyện bị đối xử tệ bạc này.
Tại Huế, ông Bảo Ân theo học tại trường Thiên Hựu (Providence) do các linh mục quản nhiệm. Ông tâm sự rằng, tuy sống trong một gia đình Phật Giáo thuần thành, ông lại phải theo học từ nhỏ đến lớn tại các trường nhà dòng, nên ông còn thông thuộc kinh Thiên Chúa Giáo hơn một người theo đạo Chúa khác.
phi anh

Bà Phi Ánh thời xuân sắc. (Hình: Tài liệu của ông Bảo Ân)
Sau thời gian ở Huế, Bảo Ân trở lên Ðà Lạt rồi về Sài Gòn. Tới tuổi quân dịch, năm 1970, chỉ mới có bằng trung học, ông vào quân trường Quang Trung, rồi phục vụ tại Trung Tâm 3-Tuyển Mộ Nhập Ngũ Sài Gòn. Không hiểu vì lý do gì, năm 1972, ông Bảo Ân bị thuyên chuyển ra SÐ3 tại Quảng Trị, nhưng khi ra đến nơi, sư đoàn đã tan hàng nên ông được trở về đơn vị gốc.
Cố gắng đến trường, và cuối cùng, trước khi Sài Gòn thất thủ, ông Bảo Ân là sinh viên năm thứ hai phân khoa Thương Mại tại Ðại Học Vạn Hạnh, Sài Gòn.
Sau năm 1975, bà Phi Ánh sống trong cô đơn tại Sài Gòn và qua đời vào năm 1984, ở tuổi 62. Cô Phương Minh, chị ruột của ông Bảo Ân, lấy chồng và lập nghiệp ở Pháp, ly dị, trước tháng 4 năm 1975 về Sài Gòn thăm thân mẫu và bị kẹt lại đây, sau đó được bảo lãnh sang Hoa Kỳ lập nghiệp và qua đời vào năm 2012. Phần ông Bảo Ân, lúc đó đã có gia đình nên phải sống dưới chế độ cơm sườn thêm nhiều năm nữa, cho đến 1992 mới được gia đình bên vợ bảo lãnh sang Mỹ.
Cựu Hoàng Bảo Ðại có gồm cả vợ và tình nhân là 8 người với 13 người con (tài liệu đã được ông Bảo Ân hiệu đính):
Vợ:

1. Nam Phương Hoàng Hậu. Có hôn thú, 5 con.
2. Bùi Mộng Ðiệp. Không hôn thú, 3 con.
3. Lý Lệ Hà. Không hôn thú, không con.
4. Hoàng Tiểu Lan. Không hôn thú, 1 con gái.
5. Lê Thị Phi Ánh. Không hôn thú, 2 con.
6. Vicky (Pháp). Không hôn thú, 1 con gái.
7. Clément. Không hôn thú.
8. Monique Marie Eugene Baudot. Có hôn thú, không con.
Con:
* Với Nam Phương Hoàng Hậu:

1. Thái Tử Nguyễn Phúc Bảo Long (4-1-1936/28-7-2007)
2. Công Chúa Nguyễn Phúc Phương Mai (1-8-1937).
3. Công Chúa Nguyễn Phúc Phương Liên (3-11-1938).
4. Công Chúa Nguyễn Phúc Phương Dung (5-2-1942).
5. Hoàng Tử Nguyễn Phúc Bảo Thăng (9-12-1943).
(Bốn người con còn lại của Bà Nam Phương hiện sống ở Pháp.)
*Với Thứ Phi Mộng Ðiệp, hai người con đầu hiện ở Pháp:
1. Nguyễn Phúc Phương Thảo (1946).
2. Nguyễn Phúc Bảo Hoàng (1954-1955).
3. Nguyễn Phúc Bảo Sơn (1957-1987), tử nạn tại Nhật.
*Với Hoàng Tiểu Lan:
1. Nguyễn Phúc Phương Anh, hiện sống ở Hawaii.
* Với Lê Thị Phi Ánh:
1. Nguyễn Phúc Phương Minh (1950-2012).
2. Nguyễn Phúc Bảo Ân (1951).
* Với bà Vicky
1. Nguyễn Phúc Phương Từ (Pháp).
“Họa vô đơn chí!”
Bảo Ân đã trao cho chúng tôi những trang nhật ký viết về cuộc sống của ông sau ngày 30 Tháng Tư 1975:
Ngày 30 Tháng Tư, nóng lòng vì không có tin tức gì của Ðức Bà Từ Cung ở Huế, tôi ở lại Sài Gòn để ngóng tin nên đã bỏ lỡ chuyến bay ra Hạm Ðội 7. Sau vài tuần đi ‘học tập cải tạo’ trở về, Ủy Ban Quân Quản đến nhà tôi ở 213 Công Lý Q.1 yêu cầu chị Phương Minh và tôi phải dọn ra trong vòng 24 tiếng đồng hồ vì họ nói nhà này của tướng cảnh sát ‘ngụy’ Nguyễn Ngọc Loan.
163634-DP-130325-ChoTroi-1-400

Bức hình giống phụ hoàng nhất của “Mệ Bửu Ân”. (Hình: Tư liệu của gia đình)
Tôi không biết Thiếu tướng Nguyễn Ngọc Loan có ở đây không? Thật ra biệt thự này ngày xưa là của Ðức Bà Từ Cung (mẹ Vua Bảo Ðại), ngài mua để khi vào Sài Gòn có nơi trú ngụ. Năm 1957 sau khi truất phế Vua Bảo Ðại, chánh quyền Ðệ Nhất Cộng Hòa đã tịch thu và sau này được Quốc Hội Ðệ Nhị Cộng Hòa với sự vận động tích cực của Trung Tướng TNS. Tôn Thất Ðính, chính quyền đã giao trả lại cho Ðức Bà Từ Cung và ngài ra lệnh lấy căn nhà trước lập bàn thờ Ðức Gia Long và văn phòng liên lạc bà con Nguyễn Phước Tộc, còn căn phía sau thì cho chị em chúng tôi ở.
Giấy tờ nhà đất chưa hoàn tất thì biến cố 1975 xảy ra nên không có cái gì để chứng minh là nhà này của gia đình chúng tôi. Vậy là hai chị em mau mau thu xếp đồ đạc, những gì có thể mang được gì thì mang, còn những gì nặng nề không thể mang được thì bỏ lại như tủ lạnh, bàn ghế tủ giường và nhiều thứ khác. Chị em chúng tôi về nhà Me chúng tôi ở nhờ.
Vào một buổi sáng thức dậy xuống nhà lấy vài vật dụng để xài, tôi không thấy cái vali quần áo mà tôi đã đem ra được khỏi nhà 213 Công Lý để về đây, đó là cái vali độc nhất của tôi còn lại, nay không cánh mà bay. Cuối cùng tôi tìm thấy một cái thư của chị giúp việc cho Me tôi để lại, đại ý trong thư chị ta viết, trong hoàn cảnh này, chị cần một số vốn để buôn bán nuôi con nên đã lấy cái vali trốn đi, và mong tôi tha thứ cho chị. Thế là tay trắng hoàn trắng tay, đành phải đi mua thêm quần áo để mặc.
Sống ở nhà Me tôi cho đến năm 1978 thì Me tôi bị quy vào diện tư sản, bị cưỡng chế ra khỏi nhà và buộc phải đi kinh tế mới trên cao nguyên. Vì không thể sống ở nơi rừng thiêng nước độc nên cả nhà đều bỏ trốn về Sài Gòn, mỗi người đi mỗi nơi, trốn chui trốn nhủi, không hộ khẩu, không chứng minh nhân dân, sống như những kẻ bất hợp pháp. Me và chị Phương Minh thì sống lén lút trong nhà dì Phi Hoa (vợ ông cựu Thủ Hiến Phan Văn Giáo), còn tôi thì ở nhờ nhà mẹ vợ, mỗi tháng đều phải chi tiền cho công an khu vực nhưng vẫn lo sợ bị bắt, nên ban ngày thì ngủ còn ban đêm thì mở mắt trao tráo để canh chừng công an gõ cửa xét hộ khẩu thì lo leo sang nhà bên cạnh trốn cho mau.
Me tôi rất lo lắng sợ tôi bị bắt, bà nói “Me và chị Phương Minh là đàn bà con gái, chắc không ai bắt đâu, còn con là con trai, mà là con Vua Bảo Ðại nữa, ở đây nguy hiểm lắm.” (Lúc đó chánh quyền đang tuyên truyền nói xấu nhà Nguyễn.) Me tôi ép tôi phải ra đi, bà gom góp, vay mượn cho chúng tôi vàng để tìm đường vượt biên.
Tôi đi vượt biên tổng cộng ba lần, cả ba lần đều bị lừa, hai lần vợ chồng con cái cùng đi, sau cùng hết tiền, Me tôi chỉ còn đủ cho một mình tôi đi thôi, nhưng cũng bị lừa luôn, tuy nhiên cũng còn may mắn vì chỉ bị mất vàng chứ không bị bắt vào tù.
Hết tiền, bà và chị Phương Minh đem nhẫn kim cương đi bán thì bị cướp lấy mất, chúng còn xô chị Minh té trầy cả mình mẩy. Tôi không dám làm phiền Me tôi nữa, vợ chồng tôi bàn với nhau coi ra chợ trời xem thử có thể buôn bán gì được không? Thế là tôi bán luôn hai chiếc nhẫn vàng, đó là quà kỷ niệm của Me tôi tặng khi tôi tốt nghiệp trung học và một chiếc khi tôi vào đại học.
Gian nan chốn chợ Trời
Vợ chồng tôi bắt đầu ra chợ trời kiếm sống bằng cách mua đi bán lại, các bạn hàng ngoài chợ trời thấy hai khuôn mặt ngơ ngơ ngác ngác, họ biết hai con nai này mới ra giàn, nên họ có những món hàng mua cả năm rồi mà không bán được, dân Chợ Trời gọi là “hàng ngậm,” họ giả dạng cho người khác đem đến bán cho chúng tôi, ham rẻ chúng tôi mua vô và sau đó có những món hàng chúng tôi “ngậm” cho đến ngày đi Mỹ vẫn còn trong nhà.
co troi

Gia đình “Mệ” Bảo Ân trong thời gian lăn lóc Chợ Trời. (Hình: Tư liệu của gia đình)
Thấy coi bộ bán Chợ Trời không khá, một dịp đi thăm người bà con ở Q.11, được biết người bà con này có phần hùn trong một xưởng sản xuất nước tương, vợ tôi mới bàn với tôi đổi cách làm bằng nghề đi bỏ mối ở chợ Bến Thành. Thế là vợ chồng tôi lại chuyển qua nghề bỏ mối nước tương, chúng tôi mua nước tương rồi thuê xe ba bánh chở từ Phú Thọ Hòa đến chợ Bến Thành.
Tôi đứng ở ngoài giữ hàng, còn vợ tôi thì đẩy hàng vào chợ giao cho khách hàng, cô ấy không cho tôi vô chợ vì sợ gặp người quen. Bỏ mối nước tương một thời gian, chính quyền không cho xe ba bánh lưu thông những con đường chính trong trung tâm thành phố, vả lại tôi thấy vợ tôi khiêng nặng và cực nhọc quá mà chẳng kiếm được bao nhiêu nên vợ chồng tôi bàn nhau đổi nghề một lần nữa.
Số là khi đi lấy nước tương bỏ mối, chúng tôi thấy trong khu vực này có vài xưởng làm dép cao su, bỏ mối dép cao su nhẹ nhàng hơn, thế là vợ chồng tôi đến nói chuyện và xin mua về để bán. Lúc đầu họ bảo chúng tôi phải đợi đến khi nào họ giao cho khách hàng cũ của họ xong, nếu còn dư họ sẽ bán cho chúng tôi. Cả tháng trời, mỗi ngày chúng tôi phải chờ đợi 3-4 tiếng đồng hồ mà chỉ lấy được vài lố (12 đôi) dép, rồi chúng tôi đem những lố dép đó giao lại cho các tiệm bán dép ở chợ Ðại Quang Minh, Chợ lớn.
Sau một thời gian quen rồi, chủ hãng giao cho chúng tôi nhiều hơn và bạn hàng ở chợ, họ cũng đặt hàng nhiều hơn. Có hôm chúng tôi bán được hơn năm mươi lố dép. Những người lấy mối dép như chúng tôi thấy chúng tôi được chủ hãng giao cho một số lớn, họ ganh tỵ, kiếm chuyện gây sự và dọa đánh chúng tôi, bọn họ thì đông, còn chúng tôi chỉ có hai vợ chồng. Bán dép thì nhẹ nhàng hơn nước tương, cũng kiếm tiền khá hơn nhưng bây giờ chúng tôi cảm thấy không còn an toàn nữa, mỗi lần đi lấy hàng phải nhìn trước ngó sau xem có ai phục kích mình không?
Tôi thì lo cho vợ tôi, nhưng ngược lại nàng nói nàng không sợ mà chỉ sợ cho tôi. Cô ấy nói nếu tôi có mệnh hệ nào thì Me tôi sẽ oán trách cô ấy, vì ngay cả chuyện đi bán Chợ Trời, bỏ mối nước tương hay dép chúng tôi đều giấu mẹ tôi. Nghĩ mình đang sống bất hợp pháp, không có một tờ giấy lận lưng, nay đi gây chuyện với người ta, công an mà bắt được thì đi tù là cái chắc, nên vẫn trông có dịp kiếm cách khác làm ăn.
Trong một dịp tình cờ đi ngang qua đường Nguyễn Thái Bình, Q.1, tôi gặp lại anh bạn thương phế binh tên Quân, con Ðại Úy Hải, trưởng ban an ninh trong Quân Trấn, mà chúng tôi quen nhau trước 1975. Nhà anh ở trong Quân Trấn, Sài Gòn-Chợ Lớn, nơi trước kia tôi làm việc. Hiện nay, anh đang mua bán đĩa nhạc trên lề đường Nguyễn Thái Bình. Kỳ này tôi nói vợ tôi ở nhà chăm sóc con cái, để tôi ra gặp và hùn vốn với Quân.
Sáng chúng tôi đứng ở Nguyễn Thái Bình để thu mua đĩa, chúng tôi chỉ mua nhạc hòa tấu thôi, buổi chiều thì chúng tôi đi xe bus đến các quán cafe nhạc ở Sài Gòn-Chợ Lớn-Gia Ðịnh để bán. Thời gian này, nhà nước chỉ cho phép các quán cafe mở nhạc không lời mà thôi, nên các đĩa nhạc hòa tấu càng ngày càng khan hiếm khó mua. Chúng tôi lại xoay qua buôn bán đủ thứ, cái gì có lời là chúng tôi mua vào.
163634-DP-130325-ChoTroi-3-400

“Công Chúa” Phương Minh và “Hoàng Tử” Bảo Ân bên cạnh mẹ trong thời gian thơ ấu ở Ðà Lạt. (Hình: Gia đình cung cấp)
Tôi có một kỷ niệm không bao giờ quên được là, có một lần con trai tôi là Quý Khang đòi theo cha ra chợ Trời chơi, lúc đó Quý Khang mới ba tuổi, đến trưa Quý Khang buồn ngủ, tôi đang bận coi hàng nên không thể chở Khang về, nên trải tạm tờ báo ra lề đường cạnh chỗ tôi ngồi bán hàng để cháu nằm ngủ. Nhưng xui xẻo làm sao, đúng lúc đó công an và quản lý thị trường đem xe đến hốt những người chiếm lòng lề đường để buôn bán, thương binh Quân thì tàn tật không chạy nhanh được nên tôi phải phụ Quân gom hàng chạy cho nhanh, nếu họ bắt được thì hàng mất, còn tôi chắc cuộc sống của tôi cũng bi đát luôn, quýnh quáng quá lo chạy, nên bỏ quên thằng con đang nằm ngủ ngon lành trên lề đường. Lúc đó đường Nguyễn Thái Bình vắng tanh không còn một bóng người, chỉ còn Quý Khang đang nằm ngủ trên tờ báo, đúng như thành ngữ “đem con bỏ chợ!”
Quân theo gia đình đi Mỹ theo diện H.O. trước chúng tôi. Sau này qua Mỹ gặp lại anh ở Garden Grove, Quân nhỏ tuổi hơn tôi, chưa lập gia đình vẫn ở với cha mẹ, anh bị tàn tật nên cũng khó lấy vợ, còn gia đình tôi ở Westminster, lâu lâu Quân đến nhà tôi ăn cơm, ngồi ôn lại những ngày tháng vui buồn chợ Trời. Tiếc là ngày nay Quân đã ra người thiên cổ.
Gian nan những chuyến đi
Khoảng cuối năm 1975, bà Phi Ánh vào Tòa Ðại Sứ Pháp tại Sài Gòn, yêu cầu xin cho toàn gia đình (gồm cả chồng, con riêng và con của cựu hoàng) được đi Pháp. Ít lâu sau, qua ông đại sứ Pháp, Cựu Hoàng Bảo Ðại chỉ chấp thuận cho bà Phi Ánh và hai con sang đoàn tụ và tòa đại sứ đã nhanh chóng cấp Laissez-Passer cho bà Phi Ánh, Phương Minh và Bảo Ân. Tuy nhiên, Phương Minh đã có thời gian sống ở Pháp, nói rằng đời sống ở Pháp rất khó khăn, và tuy vì tình thương con, cựu hoàng thật ra không đủ khả năng bảo trợ nuôi dưỡng ba người. Mặt khác gia đình của bà Phi Ánh không thể chia cắt như thế, và Bảo Ân cũng không thể bỏ vợ con ở lại, nên chuyện ra đi không thành.
bao An va Mong Diep

Ông Bảo Ân và Thứ Phi Mộng Ðiệp trước tranh vẽ Cựu Hoàng Bảo Ðại (Paris 2004)
Năm 1978, người chồng sau của bà Phi Ánh vượt biên sang Mỹ thành công, gửi giấy bảo lãnh về, nhưng lúc ấy Bảo Ân đã có gia đình, không đủ điều kiện ra đi. Trong khi chờ đợi đi Mỹ, bà Phi Ánh mắc bệnh ung thư và qua đời năm 1984.
Năm 1985, bà Phương Minh và các con riêng của bà Phi Ánh đi định cư ở Mỹ.
Mãi đến năm 1992, gia đình ông Bảo Ân được gia đình bên vợ bảo lãnh, sang Mỹ và định cư tại quận Cam từ đó đến nay. Những năm đầu tiên, cũng như bao nhiêu người mới sang khác, bà Bảo Ân phải ngồi shop may suốt ngày, ông làm trong một hãng in áo T-shirt và về sau sang làm cho một hãng Nhật chuyên sản xuất CD tại Garden Grove.
Con trai ông Bảo Ân, cháu đích tôn của Cựu Hoàng Bảo Ðại, Nguyễn Phước Quý Khang tốt nghiệp UCI về ngành thương mãi và hiện làm cho một công ty ngoại quốc ở Sài Gòn.
Xây mộ cho phụ hoàng
Gia đình Bảo Ân đến Mỹ năm 1992 nhưng vì thất lạc hồ sơ nên đến năm 2005 gia đình mới có quyền công dân. Cầm passport trong tay, quốc gia đầu tiên mà ông muốn đến là Pháp, để thăm mộ cha, điều mà ông mơ ước từ lâu, nhưng chưa có cơ hội thực hiện. Ông Bảo Ân đã liên lạc với một người bạn ở Paris là Ðặng Văn Phụng, nhờ vợ chồng người này đi xem thử tình trạng ngôi mộ của Vua Bảo Ðại hiện nay tại nghĩa trang Passy thuộc hạt Trocadero Paris 16e ra sao. Theo lời kể của ông Bảo Ân, người bạn này suốt một ngày đi tìm, đọc hết các tấm bia mộ mà không không thấy, nghi ngờ rằng cựu hoàng không được chôn cất tại đây. Ông Bảo Ân gợi ý cho người bạn là nên đi tìm người gác nghĩa trang để hỏi, mặc dầu với bản sơ đồ trong tay, cuộc tìm kiếm cũng không kết quả. Một lần khác, trong khi đang đứng gần ngôi mộ của cựu hoàng, người bạn này tình cờ gặp và hỏi một người cảnh sát già về ngôi mộ của “Sa Majesté Bảo Ðại,” thì ông này chỉ ngay vào ngôi mộ gần đó. Ðó là một ngôi mộ không có bia, không khắc tên, chỉ trơ trọi hai tấm “đan” xi măng sần sùi, với mấy chậu hoa đã quá cũ kỹ qua thời gian. Người bạn của anh nhìn xuống ngôi mộ mà bật khóc. Nơi yên nghỉ của một ông vua mà như thế này sao?
Ông Bảo Ân hồi tưởng: “Nghe anh kể mà tôi khóc nức nở, thật là tội nghiệp cho cha tôi, cha nằm đó lạnh lẽo như một kẻ vô danh đã 8 năm rồi, không ai biết để thắp một nén nhang cho cha ấm lòng.”
bao an va mo bao dai

Ông Bảo Ân ngậm ngùi trước ngôi mộ đơn sơ của cha
Nghĩa trang Passy ở Paris là một nghĩa trang nổi tiếng được xây dựng từ đầu thế kỷ XIX, nơi chôn cất nhiều nhân vật lừng danh của thế giới như tài tử phim hài Fernandel (1903-1971,) nhà văn Virgil Gheorghiu (1916-1992,) họa sĩ Edouard Manet (1832-1883,) người sáng lập công ty xe hơi Marcel Renault (1872-1903,) Tổng Thống Pháp Alexandria Millerand (1859-1943)… Cũng theo lời kể của ông Bảo Ân, Vua Bảo Ðại không tiền và cũng không có thế lực để được chôn cất tại đây, đây là phần mộ của một thương gia giàu có ở Paris, rất kính trọng cựu hoàng, khi nghe ông qua đời đã hiến phần đất này cho ngài.
Về việc xây mộ cho Cựu Hoàng Bảo Ðại, khi ông từ trần ở Paris, chỉ có người vợ cuối cùng của ông là bà Monique Baudot, người Pháp ở bên cạnh, và trên pháp lý, chỉ có bà Monique, người vợ có hôn thú còn sống mới có quyền xây mộ cho ngài.
Theo sự hiểu biết của ông Bảo Ân, bà Thứ Phi Mộng Ðiệp và các con tuy có tiền nhưng lại không muốn giao cho bà Monique xây mộ. Lúc sinh thời, Thái Tử Bảo Long không làm được, gia đình bên các công chúa không làm được, phía Nguyễn Phước Tộc cũng không làm được vì không có sự đồng ý của bà Monique, thậm chí hội này có quyên góp và giao lại cho bà Monique một số tiền để xây mộ nhưng không có kết quả… Nhiều người giàu có muốn xây mộ cho Vua Bảo Ðại để lấy tiếng cũng bị bà Monique cản trở.
Ông Bảo Ân rất xúc động và đau lòng khi nghe người bạn từ Paris mô tả những gì về ngôi mộ này, nên muốn nhờ người bạn đi kiếm người làm một tấm plaque khắc tên Vua Bảo Ðại đặt trên ngôi mộ và sau này có thể xúc tiến việc xây mộ cho ngài. Người bạn tìm đến ông Nguyễn Duy Hiệp, một người Việt, có dịch vụ chuyên lo về thủ tục mai táng của thành phố Paris. Ông này khi nghe nói đến có một người con cựu hoàng hiện ở Mỹ có quan tâm đến ngôi mộ, ông rất cảm kích và ngỏ ý ông sẽ liên lạc với bà Monique để có thể tiến hành việc xây mộ. Ông Nguyễn Duy Hiệp giải thích là bà Monique có nhờ ông quyên tiền để xây mộ cho cựu hoàng, nhưng trong ba năm, ông chỉ nới quyên được 1,200 Euros, vậy nếu “Mệ” Bảo Ân có khả năng làm được, “thì mời sang Paris, chúng ta sẽ bàn tiếp”.
Một chủ công ty mộ bia ở Paris là ông Cridel thấy hoàn cảnh của Cựu Hoàng Bảo Ðại đáng thương nên đã gặp bà Monique, và điều đình với bà, nếu bà bằng lòng thì ông sẽ thực hiện bản vẽ và ông sẽ giúp 50% phí tổn xây cất. Ông Nguyễn Duy Hiệp cũng góp lời thuyết phục, cuối cùng bà Monique đồng ý và giao cho ông Hiệp gây quỹ trong bà con cộng đồng Việt Nam.
bao an va cont rai

Ông Bảo Ân và con trai, Quý Khang, cháu đích tôn của Cựu Hoàng Bảo Ðại bên ngôi mộ mới vừa hoàn thành.
Gây quỹ
Tốn phí cho công trình xây mộ ước tính ban đầu là khoảng 25,000 Euros. Công ty Cridel chịu 50%, ông Nguyễn Duy Hiệp quyên được 3,000 và cá nhân ông đóng thêm 1,000, chùa Tịnh Ðộ đóng góp 1,000, các vị đạo hữu Cao Ðài cho được 400. Số tiền còn lại do các vị trong cộng đồng Việt Nam đóng góp. Xúc động nhất là có 1 cháu gái gởi tới 5 Euros kèm theo bức thư đại ý là cháu còn đi học không có nhiều tiền nhưng thấy thương ông vua của mình quá nên xin được đóng góp để xây mộ cho ngài. Như vậy còn thiếu khoảng 9,000 Euros cho nên việc xây mộ đã chờ đợi hơn 3 năm nay rồi mà không thực hiện được.
Sau sự tường trình của ông Nguyễn Duy Hiệp, ông Bảo Ân hứa sẽ cung cấp số tiền còn lại. Ông Bảo Ân cũng cho chúng tôi biết, qua Mỹ phải làm ăn vất vả, không có tiền, tuy vậy ông đã “cà” tất cả thẻ “credit” ông có mới có đủ tiền xây mộ cũng như trang trải tốn phí cho những chuyến đi sang Pháp.
Năm 2005, ông Bảo Ân qua đến Pháp, việc đầu tiên là đến gặp ông Cridel để xem bản vẽ, để xem có cần sửa chữa gì không? Ghi khắc tên tuổi của cựu hoàng trên bia đá như thế nào? Ðể khắc chữ bằng vàng trên bia mộ, phải tốn thêm 2,200 Euros. Sau khi bà Monique chấp thuận, ông Cridel sẽ cho xúc tiến xây mộ ngay lập tức, và khi nào hoàn tất, ông sẽ báo cho ông Bảo Ân trở qua Pháp để tổ chức lễ tưởng niệm và cầu siêu cho cựu hoàng.
Khi được thông báo công việc êm xuôi, cuối năm 2006, ông Bảo Ân trở lại Paris. Ông “chạm trán” bà Monique tại phần mộ của cựu hoàng. Bà Monique nổi tiếng là khó khăn, câu nói đầu tiên của bà Monique khi nhận ra Bảo Ân là “mắng” ông sao sang Paris mà không đến thăm viếng bà theo phép lịch sự, trong khi đó lại đến thăm bà Mộng Ðiệp. Ông Bảo Ân đành lấy lý do ông không rành tiếng Pháp và không biết đường sá.
Bà Monique cũng than phiền là các con Vua Bảo Ðại “làm phiền bà quá nhiều!”
Việc ông Bảo Ân xây được mộ cho cựu hoàng cũng là do duyên định, hình như vua cha dành cho ông vinh dự này vì gần 10 năm nay, không ai có thể thuyết phục được bà Monique để cho họ xây mộ của Vua Bảo Ðại, trong khi chính bà lại không có tiền hay không muốn xây mộ.
164028-DP-130401-BaoDai-8-400

Bốn chữ “Bảo Ðại Sắc Tứ” được khắc trên đầu bia mộ.
Ngoài các dòng chữ do ông Bảo Ân soạn khắc trên bia mộ, bà Monique đã quyết định là khắc thêm hình ảnh kim khánh bốn chữ “Bảo Ðại Sắc Tứ” khắc trên tấm bia, mà có lẽ những người làm bia mộ, không ai biết ý nghĩa của nó.
Trước ngày khánh thành, ông Bảo Ân cho bà Monique hay là ông sẽ đem lá cờ vàng ba sọc đỏ vào treo trước ngôi mộ, vì đây là lá cờ ngày 2 Tháng Sáu năm 1948, chính phủ của Quốc Trưởng Bảo Ðại (với Thủ Tướng Nguyễn Văn Xuân) đã chính thức dùng làm quốc kỳ của quốc gia Việt Nam. Cuộc thương thảo bất thành vì bà Monique không bằng lòng và de dọa sẽ gọi cảnh sát can thiệp nếu ông Bảo Ân đem lá cờ VNCH vào lễ khánh thành.
Con trai của cựu hoàng phản đối bằng cách không đến tham dự lễ khánh thành ngôi mộ của cha, và bài diễn văn soạn sẵn, với tư cách là đại diện của gia đình Vua Bảo Ðại, để cám ơn các quan khách và hội đoàn người Việt tại Paris, sẽ không bao giờ còn cơ hội để đọc nữa.
Ngày khánh thành mộ cựu hoàng có đủ các chức sắc thành phố, các hội đoàn người Việt ở Paris, nhưng lại vắng bóng các “Mệ” con của Vua Bảo Ðại, ngoài lý do trên của Bảo Ân, không ai muốn gặp mặt bà Monique. Ông Bảo Ân cho biết lý do, nếu ai đến, tức là đã công nhận bà Monique trong vai trò người vợ chính thức của nhà vua, đó lại là điều tất cả mọi người không ai muốn.
Những đoạn đời gian truân
Ông Bảo Ân nhớ lại: Nếu không có chuyện tịch thu tài sản và nhà cửa của bà Phi Ánh, mẹ ông, thì không có cảnh gia đình tan tác, mẹ con mỗi người mỗi ngả và lâm cảnh túng bấn.
“Cuộc đời đôi khi giống như một vở kịch.” Ông Bảo Ân tâm sự: “Ngày hôm đó thật là một ngày buồn thảm đáng ghi nhớ, trời đã tối rồi mà ba mẹ con chúng tôi vẫn chưa tìm ra chỗ để dung thân, đi tới đâu ai cũng khéo léo từ chối, không ai còn muốn dính dáng tới chúng tôi nữa. Ông ngoại nói với dì Phi Hoa để cho chúng tôi tạm trú, mặc dầu gia đình bà cũng đang lâm vào hoàn cảnh khó khăn vì có liên hệ đến Quốc Trưởng Bảo Ðại như chúng tôi.
Một thời gian khi thấy tình hình bên ngoài tạm yên, Me tôi quyết định cho chúng tôi đi học lại. Me tôi nhờ ông ngoại đến trường ghi danh cho chúng tôi, nhưng ông ngoại tới đâu, sau khi xem ‘lý lịch’ họ đều khéo léo từ chối, mà không nói lý do. Chị em chúng tôi đành phải ở nhà chơi một năm không đến trường. Sau đó chúng tôi phải tìm giải pháp là làm lại giấy khai sinh, lấy họ mẹ, từ dòng dõi nhà Nguyễn đổi thành con cháu họ Lê. Chúng tôi đã trở thành con người mới, không còn dính líu gì đến chế độ cũ nữa, có thể gọi là ‘chối bỏ nguồn gốc để tồn tại!’”
Trong thời gian này, bà Phi Ánh cũng không dám liên lạc với Ðức Từ Cung vì sợ bị lộ tung tích, vì dầu sao Bảo Ân cũng là giọt máu của cựu Hoàng Bảo Ðại duy nhất đang sống tại Việt Nam.
Ông Bảo Ân tiết lộ, tên thật của ông do bà Từ Cung đặt cho ông khi mới sinh ra đời là Bảo Khương. Khi làm lại giấy khai sinh, ông đã đổi tên Bảo Ân và lấy họ mẹ. Sau này khi bà Từ Cung và cựu Hoàng Bảo Ðại biết chuyện này, cũng đã rất thông cảm.
Năm 1964, bà Từ Cung đem Bảo Ân ra Huế ở với bà để đi học, cho đến năm 1968, khi biến cố Mậu Thân xảy ra, sau khi vịt con rút ra khỏi Huế, bà Phi Ánh lo sợ cho con, nên đã nhờ một người trong Nguyễn Phước Tộc là ông Bửu Nghi, xin với Thiếu Tướng Nguyễn Cao Kỳ một chiếc trực thăng để đưa Bảo Ân từ sân Phú Văn Lâu lên phi trường Phú Bài, và từ đây ông đi theo máy bay C.130 chở tử sĩ và thương binh về Sài Gòn. Mười hai năm sau, 1980, “Mệ” Bảo Ân và chị là Phương Minh đã trở lại Huế để thọ tang bà nội là Ðoan Huy Hoàng Thái Hậu, tức là Ðức Bà Từ Cung.
Việc tịch thu tài sản của gia đình Quốc Trưởng Bảo Ðại
Nhiều người biết chuyện Quốc Trưởng Bảo Ðại bị ông Ngô Ðình Diệm truất phế trong cuộc “trưng cầu dân ý” vào ngày 23 Tháng Mười năm 1955, nhưng ít ai biết đến việc tài sản của toàn gia đình những người liên hệ với Quốc Trưởng Bảo Ðại (kể cả vợ không hôn thú) và của các ông Vĩnh Cẩn, Nguyễn Ðệ đều bị tịch thu. Thân mẫu của Quốc Trưởng Bảo Ðại, Ðức Từ Cung phải dọn ra khỏi Cung An Ðịnh.
Câu hỏi của chúng tôi đối với ông Bảo Ân là, phải chăng việc tịch thu tài sản này là do cấp dưới, tùy tiện, “lấy điểm” mà không phải do chủ trương, chính sách của cấp trên?
164412-DP-BD11-400

Công báo VNCH ngày 22 Tháng Ba 1958.
Ông Bảo Ân đã cho chúng tôi xem một tài liệu cũ mà ông đã lưu giữ từ 56 năm qua, tờ Công Báo Việt Nam Cộng Hòa ngày Thứ Bảy 22 Tháng Ba 1958, ấn hành bởi tòa tổng thư ký Phủ Tổng Thống, “bảng phụ đính vào quyết định số 400.BTC/DC ngày 14 Tháng Ba 1958 của ông bộ trưởng tài chánh chỉ định những tài sản của Bảo Ðại và bộ-hạ đặt dưới đạo luật số 17/57 và 16-2-1957 và sắc lệnh số 122-TC ngày 27-02-1958 chỉ định tài sản tịch thu” của:
  • Vĩnh Thụy tức Bảo Ðại.
  • Marie Jean Nguyễn Hữu Hào, tức Nguyễn Thị Lan, tức Nam Phương Hoàng Hậu, vợ chính thức của Bảo Ðại.
  • Bùi Thị Mông Ðiệp hay Bùi Mộng Ðiệp, vợ không chính thức của Bảo Ðại.
  • Lê Thị Phi Ánh hay Lê Phi Ánh, vợ không chính thức của Bảo Ðại.
  • Hoàng Thị Lang (hay Lan) tức Wong Y Lang, tức Jenny, vợ không chính thức của Bảo Ðại.
  • Vĩnh Cẩn (anh em chú bác và là người thân cận với cựu hoàng, thường được gọi là Hoàng Tùng Ðệ) và vợ chính thức là Nguyễn Hữu Thị Bích Tiên.
  • Nguyễn Ðệ (đổng lý văn phòng quốc trưởng ở Paris) và vợ là Bùi Thị Mão.
Tài sản bị chỉ định tịch thu gồm có bất động sản như nhà cửa, lâu đài, biệt điện, đồn điền, các sở đất, các kho chứa hàng, tất cả khí mãnh, dụng cụ trang bị cho các cơ sở trên, số tồn khoản tại các nhà băng, các cổ phần trong các công ty, các số nợ cho người khác vay, các loại xe hơi…
Chúng ta cũng biết là sau khi Quốc Trưởng Bảo Ðại bị truất phế, An Ðịnh Cung, diện tích 16,584 m2, tọa lạc tại bờ sông An Cựu Huế, tư sản của Vua Khải Ðịnh, không phải của triều đình nhà Nguyễn, đã bị chỉ định là tài sản tịch thu của “Vĩnh Thụy tức Bảo Ðại”. Thoạt đầu Ðức Từ Cung phải dọn qua tạm trú tại nhà thờ Kiên Thái Vương, trong khuôn viên Cung An Ðịnh Cung, và sau đó ra ở tại ngôi nhà ở địa chỉ 79D Phan Ðình Phùng, gần chợ An Cựu cho đến khi bà qua đời.
Sống lưu vong, chết nghèo khó
Theo lời kể của thứ phi Mộng Ðiệp với ông Bảo Ân, cuối năm 1955, sau khi bị truất phế, bề ngoài không ai biết cựu hoàng nghĩ gì, nhưng theo bà, ông đã có một thời gian bị trầm uất, mất ngủ và phải dùng thuốc an thần. Ông nói là ông rất lo cho Ðức Từ Cung. Sau này nghe tin Ðức Từ Cung bị đuổi ra khỏi Cung An Ðịnh, cựu Hoàng Bảo Ðại lại càng lo hơn, tối không ngủ được. Cựu hoàng hút thuốc lá liên miên, và thường bỏ nhà đi “bụi đời” (nguyên văn), không biết đi đâu, chỉ những lúc đau ốm hay cạn tiền mới trở về với bà Mộng Ðiệp.
Cũng theo lời tường thuật của ông Bảo Ân: “Sau cú ‘sốc’ đó cựu hoàng không muốn tin ai nữa, không muốn tiếp xúc với ai, ông bảo bà Mộng Ðiệp đưa tiền rồi đeo cái túi xách lên vai đi 3-4 ngày, đôi khi đi cả tuần đến khi đau ốm hoặc hết tiền mới trở về. Khi hết bệnh ông lại đi tiếp, hỏi ông đi đâu thì ông nói đi loanh quanh đây thôi. Có khi bà Mộng Ðiệp phải bảo Hoàng Tử Bảo Sơn và anh Jean Bui (con riêng của bà) theo dõi cựu hoàng, thì ông giận bà suốt hai tuần. Có lần cựu hoàng lên cơn sốt rét nằm trên băng ghế, dưới hầm metro, cảnh sát đem ông về đồn và gọi điện thoại cho Hoàng Tử Bảo Long đến bảo lãnh ông về, rồi khi hết bệnh ông lại đi nữa.”
Thứ Phi Mộng Ðiệp nói với Bảo Ân: “Nhà dì giống như cái trạm, hết tiền hay đau bệnh thì ngài mới về. Vì vậy khi Hoàng Hậu Nam Phương qua đời năm 1963, ở Chabrignac, không ai biết ngài ở đâu để thông báo. Ðiều này làm ngài rất buồn và cứ băn khoăn trách móc dì mãi!”
Nghèo khổ và cô đơn
Năm 1967, Công Chúa Phương Minh sang Pháp theo sự sắp xếp hôn nhân của gia đình nhưng không thành, thấy hoàn cảnh của vua cha cô đơn và tội nghiệp, nên cô tình nguyện ở lại để săn sóc cha.
Lúc này cựu hoàng đã dùng thuốc ngủ rất nặng, có lần uống thuốc xong, nằm vắt tay lên trán, vừa suy nghĩ vừa hút thuốc. Khi thuốc ngấm, ông ngủ hồi nào không biết, điếu thuốc trên tay rơi xuống áo cháy phỏng cả ngực, nên lần sau mỗi lần ông dùng thuốc ngủ, cô Phương Minh đứng đó canh chừng đến khi ông ngủ rồi mới dám đi làm công việc. Tuy ở Paris, Phương Minh cũng chỉ gặp Hoàng Tử Bảo Long một lần và chưa hề giáp mặt Bảo Thăng và các công chúa Phương Mai, Phương Liên và Phương Dung. Quốc Trưởng Bảo Ðại có nhiều vợ và nhiều dòng con, khi Nam Phương Hoàng Hậu qua đời, ông cũng không hay biết, điều đó đã tạo thêm sứt mẻ trong gia đình.
bao dai

Từ trái sang phải: Bà Ưng Thi, cựu Hoàng Bảo Ðại, bà Monique Baudot, ông Ưng Thi (Paris 1995). (Hình: Tài liệu của gia đình ông Bảo Ân)
Ðời sống ở Paris cũng khó khăn, vất vả, cô con gái của cựu hoàng, phải đi làm tiếp viên trong một nhà hàng Trung Hoa để có phương tiện để sống gần cha và chính cô, cũng phải nhận sự trợ giúp từ mẹ ở Sài Gòn. Trong thời gian này, hầu hết sự chi dùng của ngài là do tiền của Ðức Bà Từ Cung gởi qua. Mặc dầu các con cũng thường hay lui tới thăm ngài, nhưng ngài không bao giờ đề cập đến vấn đề tiền bạc, và cũng không ai nghĩ đến chuyện giúp đỡ ngài. Theo lời cô Phương Minh kể lại, khi có tiền thì hai cha con rủ nhau đi nhà hàng, khi hết tiền thì nhiều ngày chỉ có một bữa ăn.
Nhiều khi cạn tiền, túng thế, cựu hoàng phải bảo Phương Minh chạy đi “vay mượn” những người quen biết.
Cho mãi đến năm 1971, Phương Minh hay tin mẹ đau nặng, cô trở về Sài Gòn và bị kẹt lại sau khi cơm sườn chiếm miền Nam.
Cũng năm này, Bảo Ðại kết hôn với Monique Baudot, một phụ nữ Pháp kém hơn 30 tuổi (Monique Baudot sinh năm 1946.) Bảo Ðại vào đạo Thiên Chúa, có tên thánh là Jean-Robert.
Ở Paris, cựu Hoàng Bảo Ðại không có nổi một căn nhà, nơi mà cựu hoàng ở với bà Monique trong những ngày cuối đời là do một người Pháp yêu mến để cho cựu hoàng ở không lấy tiền. Có lần, theo lời kể của bà Mộng Ðiệp, bà Monique đã xúi nhà vua kiện ra tòa án để lấy các tài sản của bà thứ phi, nhưng nhà vua đã không bằng lòng. Cuộc hôn nhân cuối cùng với bà Monique đã đưa đến chia rẽ trong gia đình cựu hoàng, từ đó không ai đến thăm viếng ông nữa và gần như vị vua cuối cùng của triều Nguyễn sống trong cảnh nghèo khó và cô đơn. Năm 1982, nhân khai trương Hội Hoàng Tộc ở hải ngoại, Bảo Ðại lần đầu tiên sang thăm Mỹ với tư cách cá nhân, cùng đi với cựu hoàng có bà Monique.
Sau khi cựu Hoàng Bảo Ðại kết hôn với bà Monique thì các con đều xa lánh không lui tới, thăm viếng. Ông mất ngày 31 Tháng Bảy 1997 tại Quân Y Viện Val-de-Grâce, Paris, hưởng thọ 85 tuổi. Ðám tang Bảo Ðại được tổ chức một cách lặng lẽ vào lúc 11 giờ ngày 6 Tháng Tám năm 1997 tại nhà thờ Saint-Pierre de Chaillot số 35 đại lộ Marceau, quận 16 Paris và linh cữu được mai táng tại nghĩa địa Passy trên đồi Trocadero, không hề thấy sự hiện diện của thân thích gia đình, trừ bà Monique, người vợ cuối cùng ở bên cạnh, với cờ tam tài của Pháp Quốc và Hội Cựu Quân Nhân Pháp.
‘Hoàng Tử’ Bảo Ân xin hai chữ ‘công bình’
Ðể kết thúc bài viết về cựu Hoàng Bảo Ðại và tấm lòng của đứa con trai lưu lạc Bảo Ân, không có gì hơn là mời bạn đọc hiểu nỗi lòng của ông, được ghi lại trong bài diễn văn thay mặt gia đình, dự định đọc trong lễ khánh thành lăng mộ cựu Hoàng Bảo Ðại năm 2006 không thành.
Hoàng Tử Bảo Ân đã biện bạch nỗi lòng của một đứa con “bất hiếu” và xin hai chữ “công bình” cho phụ hoàng:
“Năm 1980 tại Huế, tôi đã từng khóc để tiễn biệt Ðức Bà Nội tôn kính của chúng tôi là Ðoan Huy Hoàng Thái Hậu Từ Cung về với tổ tiên, liệt thánh nhà Nguyễn. Một lần nữa, 1986, tôi lại khóc để vĩnh biệt mẹ thân yêu của chúng tôi là bà thứ phi Lê Phi Ánh, và bây giờ, mặc dầu trễ chín năm do hoàn cảnh, cuối cùng tôi cũng đến được nơi đây để mong một phần nào làm tròn bổn phận của một đứa con hơn 50 năm qua, ao ước được gặp lại cha mình, nhưng rồi mãi mãi niềm ao ước đó chẳng bao giờ thành hiện thực. Ngày nay đứng bên mộ phần của cha, xin cúi đầu kính cẩn dâng lên ngài lời cầu xin được tha tội!”
“Nói về cuộc đời của Cha tôi, lâu nay có nhiều dư luận trái ngược nhau. Ngày hôm nay, bên mộ phần ngài, tôi không muốn biện minh những gì ngài đã làm cho dân tộc của ngài, mà chỉ xin quý vị, cùng tất cả những người Việt Nam khác, hãy bỏ qua những khác biệt chính trị mà chỉ xét vấn đề trên từng bối cảnh lịch sử của đất nước, xin vui lòng nhìn vào lương tâm mình, không phải để tìm trong đó lòng bác ái hay một tình cảm riêng tư, bởi vì cha tôi, không muốn và cũng không chờ đợi sự rộng lượng đó của quý vị, mà chỉ xin quý vị tìm trong đó một đức tính cao thượng và lòng trung thực để trả lại cho ngài hai chữ ‘công bình’ trong lịch sử.” (Bảo Ân)
 

daodiemq

Tiến sĩ
Chủ thớt
“Nói về cuộc đời của Cha tôi, lâu nay có nhiều dư luận trái ngược nhau. Ngày hôm nay, bên mộ phần ngài, tôi không muốn biện minh những gì ngài đã làm cho dân tộc của ngài, mà chỉ xin quý vị, cùng tất cả những người Việt Nam khác, hãy bỏ qua những khác biệt chính trị mà chỉ xét vấn đề trên từng bối cảnh lịch sử của đất nước, xin vui lòng nhìn vào lương tâm mình, không phải để tìm trong đó lòng bác ái hay một tình cảm riêng tư, bởi vì cha tôi, không muốn và cũng không chờ đợi sự rộng lượng đó của quý vị, mà chỉ xin quý vị tìm trong đó một đức tính cao thượng và lòng trung thực để trả lại cho ngài hai chữ ‘công bình’ trong lịch sử.” (Bảo Ân)

Chủ tịch Uncle Lake và cố vấn Vĩnh Thụy​

Print Friendly, PDF & Email
baodaihcm

Tác giả: Nguyễn Đắc Xuân
Từ hơn nửa thế kỷ qua, đối với người dân Huế, mỗi lần nhắc đến lịch sử Cách mạng tháng Tám năm 1945, người ta lại nhớ đến sự kiện vua Bảo Đại thoái vị chấm dứt thời đại quân chủ ở Việt Nam và nhớ đến chuyện Chủ tịch Uncle Lake thực hiện chính sách đoàn kết dân tộc đã mời ông vua vừa thoái vị làm cố vấn cho Chính phủ lâm thời nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (1945-1946). Là một người nghiên cứu Huế, nghiên cứu Chủ tịch Uncle Lake với Thừa Thiên Huế, tôi đã sưu tầm được khá nhiều tư liệu lịch sử có liên quan đến mối quan hệ của Chủ tịch Uncle Lake với Cố vấn Vĩnh Thụy. Tôi xin trích 4 tư liệu sau đây để độc giả thưởng lãm và nhớ đến Bác.
1 . Hồi ức của sĩ quan hầu cận
Qua gia đình của cụ Hoàng Xuân Hãn ở Paris, tôi được biết ông Hoàng Xuân Bình, học viên của trường Thanh niên tiền tuyến đã được cử làm sĩ quan hầu cận cho cố vấn Vĩnh Thụy hồi đầu tháng 9/1945. Một buổi sáng tháng 8 năm 1999, tôi tìm đến nhà ông Bình ở cuối đường Nam Kỳ Khởi Nghĩa (Q.3, TP.HCM) đối diện với chùa Vĩnh Nghiêm. Tôi xin phép được hỏi về những kỷ niệm của ông trong thời gian ông làm sĩ quan cận vệ cho cố vấn Vĩnh Thụy.
Ông Bình nặng tai và người không được khỏe nên ông từ chối trả lời những câu hỏi của tôi. Thay vào đó ông đưa cho tôi một trang báo Văn nghệ của Hội Nhà văn Việt Nam có đăng bài cố vấn Vĩnh Thụy và tờ tạp chí Văn nghệ Nghệ Tĩnh, số 45, tháng 5/1991 với bài Hồ Chủ tịch và cố vấn Vĩnh Thụy. Cả hai bài đều do ông Hoàng Xuân Bình kể, và thầy giáo Lê Trần Sửu ghi. Ông Bình bảo tôi:​
Bài đang hot
Thế giới hôm nay: 08/05/2024

– “Lúc kể cho Lê Trần Sửu ghi, trí nhớ của tôi còn rất tốt. Bây giờ quên đi nhiều rồi. Anh xem khai thác được điều gì bổ ích… cứ việc!”.
Đó là lần đầu tiên tôi được gặp ông Bình và không ngờ cũng là lần cuối cùng. Ông Bình đã mất vào tháng 4 năm 2000. Xin phép người quá cố tôi trích một đoạn trong Văn nghệ Nghệ Tĩnh để độc giả cả nước thưởng lãm:
“Bắt đầu 5/9, tôi một mình làm nhiệm vụ “sĩ quan hầu cận” của tối cao cố vấn, vì anh Nguyễn Thế Lương nhận lệnh về Huế công tác.
Sáng 5/9, quân phục chỉnh tề, tôi theo ông Vĩnh Thụy đi ra mắt Hồ Chủ tịch. Bác ra đón tại cửa phòng làm việc trong bộ đồ ka-ki kiểu cổ đứng, hai tay mở rộng – một cử chỉ đầy ý nghĩa – vừa thân tình vừa trọng thị, làm ông vua cũ hình như cũng bất ngờ một cách thích thú.
Độ hơn một tiếng đồng hồ sau, Bác Hồ lại tiễn ông cố vấn ra tận cửa chính của Bắc bộ phủ, nơi xe đã tiến lên đón ông Vĩnh Thụy trở về. Ông lộ hẳn ra mặt sự mừng rỡ, mãn nguyện về cuộc tiếp kiến và cho biết buổi chiều Cụ Chủ tịch sẽ tới thăm tại nhà ở 51 đường Gambetta.
Ba giờ chiều, tất cả nhà, từ ông cố vấn cho tới người cần vụ, người nấu bếp, lái xe, các anh em trong tiểu đội canh gác đều sẵn sàng và bị thu hút chờ đón vị Chủ tịch ở sân trước biệt thự.
Xe Bác vào. Bác tới cùng mấy người nữa. Ông Vĩnh Thụy chờ đón Bác dưới chân tam cấp lớn, và hướng dẫn Bác lên phòng khách đón. Tất cả chúng tôi đều kéo theo lên và quên hết phép tắc, cũng vào cả trong phòng khách mà chẳng ai nhắc nhở can ngăn kể cả anh sĩ quan bảo vệ Bác.
Sau ít phút trò chuyện trong phòng, Bác đề nghị đi dạo ngoài vườn để nói chuyện. Thế là hai người khoác tay nhau – đúng hơn là Bác khoác tay ông cố vấn – xuống sân và dạo theo các lối đi rải sạn, chuyện trò thân mật như những người cố tri. Thật là một cảnh tượng có lẽ là có một không hai trong lịch sử mà mỗi một chúng tôi được chứng kiến hôm đó đều xúc động. Một cựu hoàng đế, mập mạp, phương phi, quần áo đúng mốt sang trọng của Paris hoa lệ cắt bằng vải đắt tiền, giày da hai màu, bóng loáng cùng khoác tay đi dạo rất “tâm đắc” với một nhà cách mạng lão thành đã mang án tử hình của nhà nước thực dân, phong kiến mà người kia là một kẻ tiêu biểu, một con người giản dị vô song, quần áo ka-ki thường cắt theo kiểu cổ lỗ, chân xỏ đôi giày “tàu” vải đen, hồn nhiên như thanh sắc của cây cỏ tỏa quanh bước chân dạo đi của Người.
… Sau đó, khi mở đầu “Tuần lễ vàng” Hồ Chủ tịch cử Cố vấn thay mặt Chủ tịch nước khai mạc. Diễn văn khai mạc do ông Phạm Khắc Hòe soạn, và trước khi đi dự lễ, ông Vĩnh Thụy đọc thử cho tôi nghe. Ông đọc giọng Huế, không trôi chảy mấy và ngắt câu nhiều chỗ không đúng. Khi được nhận xét như vậy, ông đã nhờ tôi dùng viết chì màu đánh dấu các chỗ ngắt giọng. Buổi lễ khai mạc diễn ra ở thềm trước Nhà hát thành phố. Sau khi đọc diễn văn một cách trôi chảy, ông cố vấn trở lại chỗ ngồi, đi qua chỗ tôi không quên cảm ơn bằng một nụ cười kèm theo một cái lè lưỡi kín đáo như mừng rỡ đã “tai qua nạn khỏi”.
Hồi đó, Hội đồng lập hiến được thành lập để làm dự thảo Hiến pháp. Ông cố vấn là thành viên của Hội đồng, thành phần rộng rãi, trong Việt Minh, ngoài Việt Minh, nhân sĩ, trí thức có tiếng tăm.
Một hôm, gặp thầy cũ là ông Đặng Thai Mai, ông cho tôi biết nhận xét của ông (cũng là một thành viên của Hội đồng):
– “Ông Vĩnh Thụy tưởng là người ăn chơi nhưng không ngờ lại có những hiểu biết khá rộng về pháp lý và có nhiều ý kiến hay”.
… Sau đó không lâu, một hôm đi làm việc về, ông qua buồng tôi, bảo nhỏ cho tôi biết rằng Cụ Hồ đề nghị ông thay mặt Chính phủ đi một chuyến qua Trung Quốc, Pháp, Anh, Mỹ để giới thiệu chế độ mới, vận động họ công nhận nước Việt Nam độc lập. Tôi thầm nghĩ trong bụng, khâm phục tài sử dụng người của Cụ Hồ, đưa một cựu hoàng vừa thoái vị nhường quyền cho chế độ Cộng hòa đi tuyên truyền cho chế độ đó!”
2. Chủ tịch Uncle Lake nói gì với Cố vấn Vĩnh Thụy đang đi công cán ở nước ngoài?
Cố vấn Vĩnh Thụy ra nước ngoài vào ngày 16/3/1946. Mấy tháng sau, Bác Hồ đã gởi một lá thư trao đổi công việc với ông. Trong lá thư ấy Bác đã nhắc nhở ông phải luôn luôn nhớ đến vai trò quan trọng mà đất nước đang giao phó cho ông. Ông phải sống xứng đáng với vai trò đó. Nhà sử học Pháp Jean Lacouture đã được đọc lá thư ấy và đã trích dẫn vào sách HO CHI MINH, (Le Seuil, 1967), một đoạn sau:
“Ngài chớ quên rằng Ngài là đại diện cho nước Việt Nam và lịch sử Việt Nam. Ngài phải làm thế nào để đời sống cửa Ngài xứng đáng với cái tên mà Ngài đang mang, xứng đáng với Tổ quốc chung, với nền độc lập của chúng ta đến nay mới giành lại được” (tr.114).
Trước ngày toàn quốc kháng chiến (19/12/1946) – theo bà Mộng Điệp (vợ thứ của Vĩnh Thụy) – Bác Hồ đã cử bác sĩ Phạm Ngọc Thạch đem tiền và vàng qua Hồng Kông cho Cố vấn Vĩnh Thụy tiêu. Đến trước tháng 8/1947, trả lời phỏng vấn của báo chí về Cố vấn Vĩnh Thụy, Bác Hồ không ngần ngại đáp rằng:
“Nhiều thành viên trong Chính phủ và bản thân tôi, tất cả đều là bạn của ông Cố vấn Vĩnh Thụy, chúng tôi rất mong muốn gặp lại ông Cố vấn và cầu mong ông Cố vấn sớm trở về để cùng nhau lo việc nước. Nhưng Cố vấn Vĩnh Thụy hiện nay (7/1947 NĐX) không thể rời Hồng Kông được. Chúng tôi xa mặt chứ không cách lòng. Chính phủ và nhân dân Việt Nam hoàn toàn tin tưởng vào sự trung thành của Cố vấn Vĩnh Thụy hiện đang ở nước ngoài nhưng vẫn tiếp tục làm việc cho chính phủ quốc gia mà Cố vấn vẫn là thành viên”. (trích lại của Philippe Devillers, Histoire du Viet-Nam de 1940-1952, Eïdition du Seuil, 1952, p.402).
Bác Hồ rất tin tưởng cố vấn Vĩnh Thụy, nhưng cố vấn Vĩnh Thụy vốn rất nhu nhược, không vượt qua được sự túng thiếu về tài chính và các cạm bẫy của mật thám Pháp và các thành phần thân Pháp nên ông đã bị đẩy vào cái thế phải trở lại làm bù nhìn cho thực dân Pháp, phản bội lại chính nghĩa của quốc gia, chống lại kháng chiến giải phóng dân tộc, đối đầu với Chủ tịch Uncle Lake và Chính phủ đã cưu mang và tin tưởng ông. Nhưng, tuy nhu nhược, Vĩnh Thụy là người có lương tri cho nên khi gặp cơ hội thuận tiện ông vẫn không giấu được những tình cảm tốt đẹp về Bác Hồ, về kháng chiến đã ẩn sâu dưới đáy tim ông.
3. Bảo Đại qua điệp viên A.13
Người điệp viên đầu tiên của cách mạng (A.13) được “Quốc trưởng” Bảo Đại tin dùng là ông Nguyễn Văn Hoàng. Khai thác tư liệu của ngành an ninh và lời tự thuật của ông Hoàng, nhà văn đại tá Công an Lê Tri Kỷ (1924-1993) đã viết cuốn Câu lạc bộ chính khách (Nxb Công an nhân dân, H.1986). Ông Hoàng nguyên là công nhân nhà máy Dĩ An, hoạt động cách mạng từ sau năm 1930. Hồi đầu kháng chiến chống Pháp, ông làm Trưởng ty Công an Thanh Hoá, sau đó ông được tướng Nguyễn Sơn và ông Đặng Thai Mai đưa vào thành hoạt động giả danh lãnh tụ đảng Phục Việt (không có thật) – “một đảng chính trị tham gia kháng chiến ngoài cơm sườn”.
Ông Hoàng cùng với “người bảo vệ” Trúc Lâm (Điệp viên A.14) vào Đà Lạt tiếp kiến “Quốc trưởng” Bảo Đại tìm cách thúc đẩy Bảo Đại can thiệp với quân đội Pháp làm sao tránh được những cuộc càn quét bắn phá tỉnh Thanh Hoá – cửa ngõ vào Nam, nơi cung cấp người và lương thực cho kháng chiến và cũng là nơi có lăng Triệu Tường tổ tiên của dòng họ nhà Nguyễn của Bảo Đại. Lần đầu gặp Bảo Đại, Văn Hoàng có cảm tưởng như sau:
… “Đã quen với hình ảnh Bảo Đại in trên bìa vở học sinh và truyền đơn quảng cáo Hiệp ước Hạ Long rồi, thế mà khi trông thấy ông ta đứng dậy dạng chân khoanh tay giữa phòng đợi, Văn Hoàng không khỏi bỡ ngỡ pha lẫn buồn cười. Ông ta to quá, khoẻ quá kềnh càng quá, ngước trông lên cứ tưởng như ông bị sưng cằm. Trong lòng bàn tay to rộng ông ta đưa ra bắt, bàn tay Văn Hoàng chỉ như tay con nít.
Sau giây phút ngỡ ngàng, Văn Hoàng nhanh chóng trấn tĩnh nhếch một nụ cười thân thiện thay một lời chào chưa nghĩ kịp. Nhưng rất chủ động và lịch thiệp, Bảo Đại không để anh lúng túng chờ đợi:
– Ông ở ngoài nớ vô, thế có được tin tức gì về Cụ Uncle Lake không? Ngài có được mạnh khỏe không? Các ông bộ trưởng trong Chánh phủ kháng chiến có được mạnh khỏe không?
Mở đầu thật bất ngờ. Không phải đối thoại căng thẳng mà là thăm hỏi thân tình. May sao sức khỏe Bác Hồ thì có người dân nào là không theo dõi? Văn Hoàng trả lời lưu loát:
– Tôi không được nghe gì về các ông bộ trưởng nhưng về Chủ tịch Uncle Lake thì luôn luôn được nghe nói tới. Cụ vẫn rất khỏe, đi bộ mỗi ngày 40 cây số, nhiều thanh niên theo được còn là mệt.
Bảo Đại nuốt tiếng thở dài. Giọng ông ta đã trầm, mồm như dầy lưỡi, lại nói thứ tiếng Huế khê đặc nên rất khó nghe:
– Tôi đã từng sống cạnh Cụ Hồ, nghe Cụ nói chuyện, cùng Cụ đi công cán hay chủ tọa nhiều phiên họp nội các, từng chứng kiến đức độ của Cụ, coi Cụ như cha và cũng được Cụ thương yêu như con. Những điều đó đã để lại trong lòng tôi không ít kỷ niệm đẹp, và có thể nói nó chi phối không ít những việc làm của tôi kể từ ngày tôi xa Cụ tới nay (1950)…”
Đọc đoạn trao đổi này tôi hơi nghi ngờ. Do đó nhờ nhà văn Vũ Hạnh giới thiệu, tôi đã được gặp ông Nguyễn Văn Hoàng (điệp viên A.13 năm xưa). Năm nay ông Hoàng vừa tròn tuổi 93 tuổi, nhà ở tại đường Lê Văn Sỹ, Q.3 Thành phố Uncle Lake. Ông Hoàng đã xác nhận những gì Lê Tri Kỷ đã viết và được tôi vừa trích dẫn trên là đúng sự thật. Từ đó tôi mới tin.​
Trong buổi lễ vận động cứu đói tổ chức trước Nhá hát lớn Hà Nội. Ngồi hàng trước, từ trái sang phải: Cụ Nguyễn Văn Tố, tướng Mỹ Gallagher (Đại diện LL Đồng Minh), Chủ tịch Hồ Chí Minh, Cố vấn Vĩnh Thụy, cụ Ngô Tử Hạ. Ảnh: TL

Trong buổi lễ vận động cứu đói tổ chức trước Nhá hát lớn Hà Nội.
Ngồi hàng trước, từ trái sang phải: Cụ Nguyễn Văn Tố, tướng Mỹ Gallagher (Đại diện LL Đồng Minh), Chủ tịch Uncle Lake, Cố vấn Vĩnh Thụy,cụ Ngô Tử Hạ. Ảnh: TL

4. Vào cuối đời Cựu hoàng Bảo Đại nói gì về Chủ tịch Uncle Lake?
Việc thoái vị của Bảo Đại là một sự kiện lịch sử lớn. Nếu người dân Việt Nam còn muốn nhắc đến Bảo Đại chính vì hành động thoái vị của ông vào ngày 30 tháng 8 năm 1945. Bảo Đại cũng biết thế. Trước khi vĩnh biệt cuộc đời (31/7/1997), Bảo Đại đã nhờ người viết hồi ký Con rồng An Nam (Le Dragon d’Annam), trả lời phỏng vấn trên đài Phát thanh Pháp, trả lời phỏng vấn đài truyền hình Pháp về sự kiện ông thoái vị. Trong chuyến đi Pháp (1999) tìm tài liệu nghiên cứu triều Nguyễn và Huế xưa, tôi đã có dịp tiếp xúc với những gì ông Bảo Đại còn để lại có liên quan đến sự kiện này. Theo tôi, cuốn phim ông trả lời phỏng vấn nhà sử học nổi tiếng của Pháp Fédéric Mittérand của đài truyền tình Pháp là đầy đủ và trung thực với ông nhất.
Tôi xin trích một số câu hỏi của nhà báo sử gia Fédéric Mittérand và câu trả lời của Bảo Đại (do kỹ sư Bùi Hữu Lân dịch qua Việt ngữ):

Và Ngài đã đi Hà Nội để gặp ông Uncle Lake. Điều kỳ lạ là ông Uncle Lake đối xử với Ngài với một sự cung kính đặc biệt?
– Vâng, xin đừng quên rằng ông Uncle Lake xuất thân từ một gia đình Nho giáo… Ông cấm những người xung quanh ông gọi tôi bằng đồng chí, bằng những tên gọi của giai cấp vô sản, ông luôn luôn gọi tôi là Ngài.
– Ông Uncle Lake mời Ngài làm Cố Vấn Tối Cao của chính phủ?
– Vâng, lúc đó không một lý do gì để mà từ chối bởi vì mọi người Việt Nam đều theo ông Hồ. Điều chúng tôi muốn, là nước nhà phải được độc lập. Tôi muốn làm dân một nước độc lập hơn làm vua một nước nô lệ. Mọi người Việt Nam đều muốn ủng hộ chính phủ ấy để tranh thủ một nền độc lập thực sự.
– Ngài đã ở gần ông Uncle Lake, ông ấy đã cho Ngài cảm tưởng thế nào về ông ấy? Nay đã qua một thời gian dài, cảm tưởng ấy có thay đổi nhiều không?
– Không, không thay đổi. Tôi luôn luôn xét ông Uncle Lake ngoài cái tư tưởng cơm sườn của ông ấy…
– Nhưng đối với Ngài, ông Hồ cũng là một nhà ái quốc?
– Đối với tôi, còn hơn thế nữa, đó là một người có tinh thần quốc gia. Ông là một người yêu nước (C’est pour moi en plus, c’est un nationaliste. Il aimait son pays)…
– Trong cuốn sách của Ngài (cuốn Le Dragon d’Annam) không thấy có một lời buộc tội khắt khe nào đối với ông Hồ. Ngài quý trọng ông Hồ? Và cũng thế, quả là rất ngạc nhiên khi thấy ông Hồ không bao giờ công kích Ngài?
– Không, không có lý do gì để tôi công kích ông ấy. Ban đầu, tôi còn ủng hộ ông ấy nữa. Cố gắng đưa nước nhà thoát khỏi chiến tranh, vì chúng ta đã khổ vì chiến tranh.
– Lúc ấy Ngài đã biết gì về chủ nghĩa cơm sườn? Ngài đã nắm hết chủ nghĩa cơm sườn?
– Không, tôi biết rất ít.
– Trong khoảng thời gian hai năm ấy (1945-1946), Ngài đã ở bên cạnh ông Hồ, và Ngài đã giúp cho ông ta nhiều việc quan trọng. Nếu phải lập lại việc này hôm nay, Ngài cũng sẽ lập lại chăng? Ngày nay Ngài đánh giá việc này thế nào?
– Còn tùy. Nếu là vì hạnh phúc của nhân dân tôi, tôi cũng sẽ làm vậy (Cà dépend. Si c’est pour le bien de mon peuple, je le ferais).
Điểm lại bốn đoạn trích trên của người trong cuộc, của các nhân chứng lịch sử, của ngành an ninh chúng ta thấy dù ở trong hoàn cảnh nào vua Bảo Đại – cố vấn Vĩnh Thụy – “Quốc trưởng” Bảo Đại – ông vua lưu vong sắp từ giã cuộc đời vẫn trước sau một lòng yêu kính Chủ tịch Uncle Lake.​
 

atlas01

Tiến sĩ
Mày biết tại sao Bảo Đại phải ở lại Trùng Khánh không?
Tại sao ông phải qua Hong Kong ko?
Bác của bọn mày bắt ông ấy ở lại đéo cho về.
Chứ không thì bảo Đại sao mà đi và ở lại được
 

daodiemq

Tiến sĩ
Chủ thớt
Có thể thấy, ông hoàng Bảo Đại dù có cuộc đời và sự nghiệp long đong do sinh thời trong giai đoạn lịch sử nước nhà và thế giới có nhiều biến động và phức tạp. Tuy nhiên, trong tình trường, ông lại là một người đào hoa hết sức với 2 người vợ (có đám cưới hoặc kết hôn), rất nhiều người tình và 13 người con. Những người tình của ông đều là những bóng hồng xinh đẹp nổi tiếng một thời, và cho dù trong hoàn cảnh khó khăn nhất của cuộc đời mình, ông vẫn luôn tìm được những người phụ nữ rất mực thủy chung và yêu thương ông sâu sắc.

Bị phế truất​

Tháng 9 năm 1954, tướng Nguyễn Văn Hinh không chịu dưới quyền chỉ huy của Ngô Đình Diệm nên đánh điện sang Pháp nhờ Bảo Đại can thiệp. Bảo Đại điện về Sài Gòn triệu tập Diệm sang Cannes gặp Bảo Đại để bàn lại việc sắp xếp nhân sự nhưng Diệm không đi. Bảo Đại quyết định điện về Sài Gòn cách chức thủ tướng của Ngô Đình Diệm.

Tuy nhiên, ngày 4 tháng 10 năm 1955, Ủy ban trưng cầu dân ý thành lập đưa ý kiến đòi truất phế Quốc trưởng Bảo Đại và đưa Thủ tướng Ngô Đình Diệm lên làm Quốc trưởng. Khi cử tri đi đến nơi bỏ phiếu, họ thấy rằng nơi đây đã bị những người ủng hộ Ngô Đình Diệm kiểm soát. Một cử tri sau khi bỏ phiếu đã nói rằng "Người chỉ đạo nói cho chúng tôi hiểu rằng ở đây chỉ có hai sự lựa chọn, hoặc là phiếu đỏ (Ngô Đình Diệm) sẽ được bỏ vào hòm phiếu hoặc phiếu xanh sẽ bị loại đi".40 Về phía Bảo Đại, ngày 18/10/1955, ông đưa ra tuyên bố cắt chức Thủ tướng cũng như xóa bỏ mọi quyền lực của Ngô Đình Diệm từ văn phòng của mình tại Paris để phản đối một chính phủ công an trị và chế độ độc tài cá nhân do Ngô Đình Diệm đứng đầu.
 

daodiemq

Tiến sĩ
Chủ thớt
Mày biết tại sao Bảo Đại phải ở lại Trùng Khánh không?
Tại sao ông phải qua Hong Kong ko?
Bác của bọn mày bắt ông ấy ở lại đéo cho về.
Chứ không thì bảo Đại sao mà đi và ở lại được
Bảo Đại đúng như những gì mọi người Việt đã biết về ông: hào hoa, lịch lãm và sành điệu, săn bắn giỏi, lái xe hơi, máy bay giỏi, khiêu vũ, đánh golf, chơi quần vợt giỏi... Ông chỉ không biết làm vua. Ông vua nước Nam cứ quẩn quanh, thậm chí mưu mẹo chỉ để có được từ chiếc xe hơi, máy bay cho đến khẩu súng săn, cuốn album bìa da, thỏa mãn những thú vui vật chất.Như lời Bảo Đại thú nhận: “Người Pháp lúc nào cũng muốn tôi ngồi yên một chỗ, không cho thân mật với dân nên trong hai mươi năm trời làm vua tôi ra Bắc một lần, vào Nam kỳ một lần, cũng là đi lướt qua, không thấy rõ ràng một điều gì. Xung quanh tôi họ đặt toàn những người mật thám. Tôi rất buồn biết mình không thể làm chi có ích cho đất nước...”.Ông mơ hồ tin tưởng vào “nền độc lập trong khuôn khổ Liên hiệp Pháp” đạt được dễ dàng cùng với các điều kiện vật chất. Quen sung sướng, quen được cung phụng, Bảo Đại dường như chưa bao giờ nghĩ đến việc đi tìm độc lập bằng con đường nếm mật nằm gai như các vua Hàm Nghi, Duy Tân trước ông.Ông đã khước từ những cơ hội mà Chủ tịch Uncle Lake đã tạo ra, mang đến cho ông... Khước từ cơ hội đi chung đường với cả dân tộc, dù ông đã cùng chính phủ cộng hòa non trẻ ngồi họp bàn từ việc lớn đến việc nhỏ trong những ngày khai sinh nhà nước. Con đường mà Bảo Đại chọn cuối cùng đã dẫn đến kết cục “ông hoàng bị quét đi như quét một hạt bụi vô giá trị...”.Hành động lớn nhất trong đời ông là thoái vị, và ông đi vào lịch sử chỉ bằng một câu nói: “Tôi muốn làm dân một nước tự do hơn là làm vua một nước nô lệ”.
Nhà báo Merry Bromberger viết về thói ăn chơi của Bảo Đại: "Muốn gặp Bảo Đại ở Hongkong chỉ cần dạo mười bốn hộp đêm trong thành phố, dễ hơn là tìm ông trong một khách sạn
 

daodiemq

Tiến sĩ
Chủ thớt
Mày biết tại sao Bảo Đại phải ở lại Trùng Khánh không?
Tại sao ông phải qua Hong Kong ko?
Bác của bọn mày bắt ông ấy ở lại đéo cho về.
Chứ không thì bảo Đại sao mà đi và ở lại được
"Vĩnh Thụy trở về với 10.000 quân viễn chinh Pháp, để giết hại thêm đồng bào Việt Nam. Vĩnh Thụy cam tâm bán nước, đó là sự thực. Âm mưu của thực dân Pháp là đặt lại chế độ nô lệ ở Việt Nam. Vĩnh Thụy làm tay sai cho thực dân, là một tên phản quốc. Pháp luật Việt Nam tuy khoan hồng với những người biết cải tà quy chính nhưng sẽ thẳng tay trừng trị những tên Việt gian đầu sỏ đã bán nước buôn dân. Quân và dân Việt Nam quyết tâm đánh tan tất cả âm mưu của thực dân, quyết kháng chiến để tranh cho kỳ được độc lập và thống nhất thật sự.
 

Manhqs

Tao là gay
Thân hình to cao lại sung sướng ko phải lo nghĩ gì thì ko ăn chơi mới lạ. Ăn chơi có thằng lõ địt gái có thằng lo thì ko chơi phí cả cuộc đời
 

daodiemq

Tiến sĩ
Chủ thớt
Thân hình to cao lại sung sướng ko phải lo nghĩ gì thì ko ăn chơi mới lạ. Ăn chơi có thằng lõ địt gái có thằng lo thì ko chơi phí cả cuộc đời
"Vĩnh Thụy trở về với 10.000 quân viễn chinh Pháp, để giết hại thêm đồng bào Việt Nam. Vĩnh Thụy cam tâm bán nước, đó là sự thực. Âm mưu của thực dân Pháp là đặt lại chế độ nô lệ ở Việt Nam. Vĩnh Thụy làm tay sai cho thực dân, là một tên phản quốc. Pháp luật Việt Nam tuy khoan hồng với những người biết cải tà quy chính nhưng sẽ thẳng tay trừng trị những tên Việt gian đầu sỏ đã bán nước buôn dân. Quân và dân Việt Nam quyết tâm đánh tan tất cả âm mưu của thực dân, quyết kháng chiến để tranh cho kỳ được độc lập và thống nhất thật sự.

 

atlas01

Tiến sĩ
"Vĩnh Thụy trở về với 10.000 quân viễn chinh Pháp, để giết hại thêm đồng bào Việt Nam. Vĩnh Thụy cam tâm bán nước, đó là sự thực. Âm mưu của thực dân Pháp là đặt lại chế độ nô lệ ở Việt Nam. Vĩnh Thụy làm tay sai cho thực dân, là một tên phản quốc. Pháp luật Việt Nam tuy khoan hồng với những người biết cải tà quy chính nhưng sẽ thẳng tay trừng trị những tên Việt gian đầu sỏ đã bán nước buôn dân. Quân và dân Việt Nam quyết tâm đánh tan tất cả âm mưu của thực dân, quyết kháng chiến để tranh cho kỳ được độc lập và thống nhất thật sự.
Cái này là anh râu phét lác về anh đại
 

dotdas13

Yếu sinh lý
Theo văn hóa bh tạm không vượt lại ngày đó. Quận 16 ở pháp bh thật còn không và văn hóa ở đó là quận của lối sống và thức ăn gì vì theo nghiên cứu ẩm thực đường phố pháp khá phức tạp khu ng ăn lao động riêng nghệ sĩ tri thức riêng nhà cầm quyền thì ở trên cao dựng rạp. Ít nhiều thì vẫn là hậu đại của vua và ổng là vua thật không sai
 
Bên trên